(TSVN) – Vào mùa mưa bão, mưa nhiều sẽ làm suy giảm pH nước ao nuôi. Vì vậy, vôi thường được sử dụng để điều chỉnh pH về ngưỡng thích hợp cho thủy sản nuôi.
Vôi dùng trong nuôi trồng thủy sản là một loại vật liệu có nguồn gốc từ đá vôi, san hô, vỏ sò hoặc các nguồn khoáng khác có chứa canxi và magie. Vào mùa mưa, vôi được sử dụng để kiểm soát pH của nước ao nuôi. Sự biến đổi pH có thể ảnh hưởng đến sức kháng của thủy sản và khả năng hấp thụ các chất dinh dưỡng. Vôi giúp duy trì môi trường nước ổn định với mức pH phù hợp, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thủy sản.
– CaO (hay còn gọi là vôi sống, vôi nóng, vôi nung): Thường được sử dụng để cải tạo ao và làm tăng độ pH. Lưu ý không nên sử dụng vôi sống cho ao đang nuôi tôm, cá. Ngoài ra, CaO còn giúp mùn bã đáy ao được phân hủy, cải thiện chất lượng nước và thức ăn tự nhiên của tôm, cá.
Vào mùa mưa, vôi được sử dụng để kiểm soát pH nước ao nuôi. Ảnh: ST
– Ca(OH)2 (hay còn gọi là vôi bột, vôi tôi): Được tạo ra từ vôi nóng (CaO) khi kết hợp với nước. Vôi tôi thường được sử dụng để cải tạo ao và làm tăng độ pH trong đất và nước. Đây là một công cụ hiệu quả để điều chỉnh môi trường nuôi trồng thủy sản.
– CaCO3 (hay còn gọi là vôi đá, vôi nông nghiệp, super canxi): Nguồn gốc từ núi đá vôi, san hô, vỏ sò,… Có tác dụng hạ phèn và khử trùng. Đây là lựa chọn phổ biến để điều chỉnh pH trong nuôi trồng thủy sản.
– Dolomite (hay còn gọi là vôi đen CaMg(CO3)2): Nguồn gốc từ đá Dolomite, có khoảng 4% magie. Bột Dolomite giúp hạ phèn trong ao nuôi tôm và tăng hệ đêm trong ao nuôi mà ít ảnh hưởng tới pH của môi trường. Tuy nhiên, do giá thành cao, loại vôi này ít được sử dụng.
Liều lượng bón vôi phụ thuộc vào tình trạng pH và độ kiềm của nước ao, cụ thể:
– Nếu pH từ 6,5 – 7: Bón từ 20 – 30 kg CaCO3 hoặc 10 – 15 kg Ca(OH)2/1.000 m².
– Nếu pH dưới 6,5: Tăng liều lượng lên 30 – 50 kg CaCO3 hoặc 15 – 20 kg Ca(OH)2/1.000 m².
– Nếu độ kiềm dưới 60 mg/lít: Bón thêm 10 – 20 kg CaCO3 để nâng độ kiềm lên mức phù hợp.
Nếu dự báo có mưa lớn, người nuôi có thể bón trước để chuẩn bị cho sự thay đổi pH. Điều này giúp ổn định pH ngay từ đầu. Cùng đó, sau khi mưa đã ngớt, kiểm tra pH nước ngay lập tức. Nếu pH giảm mạnh, cần bón vôi ngay để khôi phục lại pH ổn định.
Sau khi bón vôi khoảng 1 – 2 giờ, người nuôi cần đo lại pH nước ao để đảm bảo trở lại mức ổn định (thường từ 7,5 – 8,5).
Đồng thời, theo dõi tình trạng sức khỏe của tôm sau khi bón vôi. Nếu thấy tôm có dấu hiệu bất thường, như bơi lội không bình thường hoặc có biểu hiện căng thẳng, cần ngừng bón vôi ngay và kiểm tra lại các yếu tố môi trường khác.
Dùng vôi đúng theo tỷ lệ đã quy định đối với từng mục đích và công dụng, giúp mang lại hiệu quả, tiết kiệm và tránh rủi ro.
Nên bón vôi vào buổi sáng hoặc buổi chiều mát để tránh gây sốc cho tôm, cá. Không bón vôi vào buổi chiều hoặc buổi tối, vì có thể làm giảm ôxy hòa tan trong nước và gây nguy hiểm cho tôm, cá.
Không nên bón vôi quá nhiều hoặc quá thường xuyên, vì có thể gây tác hại cho môi trường và ao nuôi.
Vôi trước khi dùng nên đập nhỏ, thành bột, giúp thẩm thấu nhanh, phát huy hiệu quả. Tuyệt đối không dùng quá liều lượng, sai tỷ lệ vôi bởi như vậy không đem lại hiệu quả mà còn phản tác dụng, hại tới thủy sản.
Nên hòa vôi với nước trước khi bón vào ao, để đảm bảo vôi tan đều và phân bố đồng nhất trong nước.
Nên chọn loại vôi phù hợp với mục đích sử dụng và điều kiện của ao nuôi. Ví dụ: nếu cải tạo ao nuôi, có thể dùng vôi bột CaCO3 hay vôi tôi Ca(OH)2, liều lượng sử dụng 10 – 15 kg/100 m²; nếu dùng để ổn định độ pH, có thể dùng vôi bột CaCO3; nếu dùng để điều chỉnh độ trong của nước ao, có thể dùng vôi CaCO3, liều lượng 1 – 2 kg/100 m²; nếu dùng trong phòng bệnh cho tôm, cá, có thể bón vôi nông nghiệp (CaCO3) vào ao một lần định kỳ 10 – 15 ngày, liều lượng 1 – 2 kg/100 m².
Thanh Hiếu