(TSVN) – Cua biển là đối tượng nuôi mang lại giá trị kinh tế cao cho nhiều vùng ven biển. Tuy nhiên, để có được đàn cua giống khỏe mạnh, đồng đều và thích nghi tốt, người nuôi cần nắm vững quy trình kỹ thuật sản xuất giống.
Vị trí xây dựng trại sản xuất cua giống phải có nguồn nước có độ mặn tốt nhất là 28 – 32‰. Nước dùng cho trại giống cua biển phải trong, sạch, hạn chế phù sa, chất lượng nước ổn định và độ mặn dao động ít.
Cua mẹ sau khi sinh sản thì sẽ ôm trứng. Ảnh: ST
Các trại xa biển không có nguồn nước mặn có thể dùng nước ót (độ mặn từ 80 – 120‰) pha với nước ngọt thành nước có độ mặn thích hợp để ương tôm.
Trại cần có vị trí thuận lợi về giao thông đường thủy, đường bộ hay cả hai, để tiện việc vận chuyển vật liệu, con giống, thức ăn hay kinh doanh.
Trại sản xuất giống cua biển cần nguồn điện liên tục. Vì thế, cần lựa chọn vị trí phải có nguồn điện lưới quốc gia.
Bể nuôi vỗ cua mẹ có thể bằng xi măng, composite hay bể nhựa. Thể tích bể có thể là 100 L để nuôi đơn từng cua hay lên đến 5 – 10 m3 để nuôi nhiều cua. Các bể có thể riêng biệt hay lắp đặt theo hệ thống tuần hoàn. Bể nuôi vỗ cua mẹ cần phải có đáy cát khoảng 10 cm để cua có thể đẻ và ôm trứng được, trứng dính tốt vào yếm mà không bị rơi ra ngoài khi đẻ trứng.
Cua mẹ chọn nuôi vỗ sinh sản có thể là cua đánh bắt ngoài biển tự nhiên hay cua nuôi ở các ao đầm có độ mặn cao. Cua cái tốt nhất nên có khối lượng 300 – 500 g. Chọn cua gạch đầy, yếm tròn, mai bóng và sạch sẽ để nuôi vỗ sinh sản sẽ có kết quả tốt.
Không thả cua đực nuôi chung với cua cái vì đa số trường hợp cua cái đã được bắt cặp và giao vỹ với cua đực ngoài tự nhiên. Cua cái trước khi thả nuôi, cần được cắt bỏ một cuống mắt để cua thành thục sớm. Mật độ nuôi vỗ có thể 3 – 5 con/m2, tốt nhất thả nuôi đơn lẻ mỗi con trong bể 50 – 100 L.
Bể nuôi vỗ nên che kín bằng bạt đen trong suốt thời gian nuôi để cua thành thục sớm. Tuy nhiên, một số nơi cũng có thể nuôi ở bể ngoài trời có che mát hay áp dụng chu kỳ chiều sáng 14 giờ sáng/10 giờ tối.
Thức ăn dùng nuôi vỗ cua mẹ hiện nay chủ yếu là sò huyết, mực, nghêu. Thức ăn hai mảnh vỏ tươi sống thường được sử dụng hơn do chất lượng dinh dưỡng cao và hạn chế sự nhiễm bẩn môi trường do thức ăn thừa. Nhiều nghiên cứu cho thấy, cho cua ăn nhiều loại thức ăn luân phiên sẽ giúp trứng có màu sắc vàng sậm hơn so với chỉ cho ăn chỉ đơn thuần là mực.
Trong thời gian nuôi vỗ, có thể định kỳ thay nước 30 – 75% mỗi ngày, hay cho nước chảy tuần hoàn hệ qua thống lọc sinh học với tỷ lệ thay nước đến 200% mỗi ngày. Nước nuôi vỗ cua nên có độ mặn 28 – 32‰.
Cua mẹ sau khi sinh sản thì ôm trứng. Bể nuôi cua mang trứng có kích thước nhỏ (100 – 200 L), không cần đáy cát. Cho cua mang trứng ăn ít trong suốt thời gian mang trứng để tránh làm bẩn nước bể nuôi. Trong trường hợp chọn cua đã mang trứng ngoài tự nhiên để nuôi cho nở thì chọn cua có khối trứng màu cam hoặc xám, chắc và không bị nhiễm bẩn bởi các sinh vật. Cua mang trứng trong quá trình ấp có thể nhiễm nhiều động vật nguyên sinh hoặc các sinh vật khác dẫn đến tỷ lệ nở thấp. Tốt nhất nên xử lý cua mẹ bằng Formaline 100 – 200 mL/m3 trong 30 giây trước khi cho cua nở.
Tùy thuộc vào đều kiện môi trường nước, đặc biệt là nhiệt độ và độ mặn mà thời gian ấp trứng khác nhau, trung bình 9 – 10 ngày ở nhiệt độ 29 – 30°C, độ mặn 27 – 30‰ (Tran Ngoc Hai, 1997), hay 7 – 10 ngày với nhiệt độ 23 – 25ºC và 34 – 35‰ (Marichamy et al., 1991), hay 16 – 17 ngày với nhiệt độ 23 – 25ºC (Cowan, 1984).
Trứng thường nở vào buổi sáng. Thời gian từ lúc trứng bắt đầu nở đến khi nở xong cũng tùy thuộc lớn vào nhiệt độ ấp trứng, có thể 12 – 60 giờ nhưng đa số thời gian trứng nở tập trung chỉ khoảng 30 phút.
Bể ương ấu trùng cua biển có thể là bể xi măng hay bể composite, dạng tròn hay vuông và thể tích khác nhau tùy quy mô thực nghiệm hay sản xuất đại trà. Các trại cua giống ở ĐBSCL có thể tích bể 1 – 6 m3, mỗi trại có trung bình 20 – 60 m3 bể ương. Có thể ương ấu trùng cua theo mô hình nước trong hở, tuần hoàn, hay nước xanh. Bể ương cua phải thiết kế phù hợp cho từng giai đoạn của ấu trùng, thường bể ương zoea có thể tích nhỏ từ 0,5 – 1 m3/bể, bể hình tròn, có đáy chóp; trong khi bể ương megalopa và cua con có dạng hình chữ nhật hay vuông, đáy bằng, thể tích lớn từ 2 – 10 m3/bể.
Tùy từng phương pháp ương 1 giai đoạn hay 2 giai đoạn mà có thể bố trí ương với các mật độ khác nhau. Nếu ương 1 giai đoạn từ zoea 1 đến cua con thì mật độ ấu trùng thích hợp nhất là 100 – 150 con/L; nếu ương 2 giai đoạn thì giai đoạn zoea 1 đến zoea 4 có thể ương với mật độ trung bình 300 – 400 con/L; và zoea 4 đến cua con với mật độ 50 – 75 con/L. Chọn ấu trùng zoea 1 khỏe, hướng quang mạnh, hoạt động liên tục, trong sáng để bố trí ương.
Trong thực tế sản xuất hiện nay tại ĐBSCL, để đơn giản, các trại sử dụng thức ăn chủ yếu cho ương ấu trùng là Artemia cho tất cả các giai đoạn zoea. Giai đoạn zoae 1 và zoae 2 cho ăn Artemia bung dù mà không dùng luân trùng (1 – 3 Artemia/mL/lần, 6 giờ/lần), và giai đoạn zoae 3 trở đi cho ăn bằng ấu trùng Artemia mới nở hay giàu hóa (1 – 3 Artemia/mL/lần, 6 giờ/lần) xen kẽ với thức ăn nhân tạo (1 – 3 g/mL, 6 giờ/lần). Thức ăn nhân tạo dùng trong ương ấu trùng cua hiện nay chủ yếu là sử dụng thức ăn nhân tạo dùng ương ấu trùng tôm biển.
Trong quá trình ương, cần quản lý tốt các yếu tố môi trường để đảm bảo ấu trùng phát triển nhanh, lột đồng loạt và tỷ lệ sống tốt. Khoảng độ mặn và nhiệt độ thích hợp nhất là 25 – 30‰ và 26 – 300C. Tuy nhiên, đến giai đoạn ấu trùng megalopa thì có thể giảm độ mặn xuống 24‰ để giúp ấu trùng chuyển giai đoạn sớm hơn. Ánh sáng có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động bắt mồi, lột xác và phát triển của ấu trùng. Chu kỳ chiếu sáng tốt nhất là 12 – 24 giờ/ngày và cường độ chiếu sáng 4.500 – 50.000 lux (dưới mái che trong suốt) (Hải, 1997).
Trong ương nuôi ấu trùng cua, chế độ thay nước cũng rất khác nhau giữa các trại, có thể rất ít thay nước, thay nước mỗi ngày khoảng 25 – 50%, hay tuần hoàn liên tục thông qua bể lọc sinh học. Trong quá trình ương, cần sục khi liên tục và vừa phải cho bể ương. Khi ấu trùng chuyển sang giai đoạn megalopa thì đặt nhiều giá thể như chùm dây nilon, chùm lưới,… để ấu trùng bám, giảm ăn nhau.
Cua con có thể được ương ở bể xi măng hay bể đất lót bạt. Diện tích bể ương 5 – 20 m2. Bể ương nên đặt nhiều giá thể để cua bám, hạn chế ăn nhau; tốt nhất nên có lóp đáy bùn để cua trú ẩn. Mực nước trong bể 20 – 50 cm và thay nước 100% mỗi ngày. Độ mặn môi trường ương tốt nhất là 18 – 24‰. Cua thả với mật độ 200 – 500 con/m2 và ương trong 2 tuần đạt cỡ 1 cm. Thức ăn dùng cho cua con là cá tạp, ruốc hay bổ sung thức ăn nhân tạo.
Lê Loan