(TSVN) – Sau khi nở kích thước cá bột còn nhỏ, hoạt động rất yếu, phạm vi ăn hẹp, khả năng hấp thụ thức ăn kém. Vì vậy, giai đoạn này không thể thả nuôi ngay mà phải ương nuôi trong diện tích nhỏ, dễ tạo ra môi trường sống tốt giàu chất dinh dưỡng và không có các vật nuôi khác xâm hại.
– Điều kiện ao ương: Ao ương cá giống nên sử dụng những ao cũ, diện tích ao 800 – 1.000 m2, độ sâu 1,2 – 1,5 m, thuận tiện giao thông, có nguồn nước cấp ổn định, không bị nhiễm các chất thải công nghiệp và thuốc trừ sâu, diệt cỏ; có thể tháo cạn khi cần thiết, bờ ao chắc chắn, không rò rỉ. Nhiệt độ nước thích hợp từ 28 – 300C, pH thích hợp từ 7,5 – 8,5, hàm lượng ôxy hòa tan lớn hơn 3 mg/l.
– Chuẩn bi ao ương: Tháo cạn ao, dọn sạch cỏ trong ao và bờ ao, bờ ao bằng phẳng. Loại bỏ bớt bùn lỏng đáy ao, chỉ để lại lớp bùn dày 10 – 15 cm, dùng vôi bột (CaO) rải đều bờ ao và đáy ao với lượng vôi 7 – 10 kg/100 m2 để khử trùng và điều chỉnh pH. Phơi nắng ao 3 – 5 ngày đến khi ráo mặt ao (không phơi ao quá lâu sẽ có hiện tượng xì phèn). Sau đó, lấy nước vào ao qua lưới lọc để ngăn địch hại, mực nước cao 60 – 80 cm. Tiến hành gây màu nước khi đạt màu xanh nõn chuối thì có thể thả cá.
Cá bột để nuôi thành cá hương có chiều dài 0,5 – 0,7 cm đã tiêu hết noãn hoàng, có khả năng tự bơi lội kiếm ăn. Chọn cá bột bơi lội hoạt bát, không dị hình. Tùy theo điều kiện ao ở từng nơi (chất đất, chất nước) và điều kiện cung cấp thức ăn, quản lý chăm sóc mà quyết định mật độ từng loại khác nhau. Đối với ao ương cá gia đình nên ương mật độ thưa. Mật độ của từng loài cá như sau: Cá trắm cỏ: 22.000 – 25.000 con/100 m2; cá mè trắng 25.000 – 30.000/100 m2; cá chép 12.000 – 14.000/100 m2; cá trôi 18.000 – 20.000/100 m2.
Cá bột khi vận chuyển về ao ương phải được cân bằng nhiệt độ trong bao đựng cá và ở ngoài môi trường ao bằng cách ngâm bao đựng cá vào ao khoảng 10 -15 phút, sau đó mở bao cá cho nước ao vào bao, nghiêng miệng bao để cá trong bao từ từ trôi hết ra ngoài. Cá được thả vào lúc trời mát và ở đầu hướng gió.
Trong hai ngày đầu không cần cho ăn, vì lúc này trong ao đã có sinh vật phù du làm thức ăn cho cá. Từ ngày thứ 2 đến ngày thứ 10, cho cá ăn lòng đỏ trứng và bột đậu nành. Lòng đỏ trứng luộc chín, bóp nhuyễn, hòa tan trong nước cùng bột đậu nành. Tạt đều thức ăn khắp ao. Mỗi ngày cho ăn 3 lần: 7 giờ, 11 giờ, 17 giờ.
Từ ngày thứ 11 đến ngày thứ 20: Cho cá ăn bột cá, cám và bột đậu nành. Trộn đều 3 loại thức ăn trên sau đó rải đều trên mặt ao. Ngày cho ăn 3 lần.
Từ ngày thứ 21 trở đi giảm bột đậu nành, chỉ cho ăn bột cá và cám, trộn cám với bột cá với tỷ lệ bằng nhau. Cho cá ăn ngày 2 – 3 lần, lượng thức ăn chiếm khoảng 15 – 20% trọng lượng cá nuôi.
Lưu ý: Thức ăn nên trộn thêm Vitamin C, liều lượng 30 – 40 mg/kg thức ăn. Sau khoảng 15 – 20 ngày, có thể cho cá ăn bằng thức ăn viên công nghiệp loại viên nhỏ mảnh có hàm lượng đạm trên 30%. Thời gian sau bổ sung thức ăn cho cá như cám, bột ngũ cốc, thức ăn công nghiệp dạng mảnh…
Hàng ngày chú ý theo dõi hoạt động bơi lội, bắt mồi của cá, tình hình thời tiết để điều chỉnh lượng thức ăn cho hợp lý. Thường xuyên kiểm tra bờ ao để phát hiện và xử lý kịp thời các hiện tượng ao bị rò rỉ nước, bờ sụt lở. Khi thấy hiện tượng cá nổi đầu, phải nhanh chóng xác định nguyên nhân để có biện pháp xử lý. Thay nước cho ao nuôi định kỳ 1 lần/tuần, mỗi lần thay khoảng 25 – 30% lượng nước ao. Luôn giữ mức nước ao khoảng 1 – 1,2 m. Định kỳ 2 tuần/lần kiểm tra sự tăng trưởng của cá bằng cách bắt ngẫu nhiên khoảng 30 cá thể để cân xác định trọng lượng thân. Định kỳ 7 – 10 ngày bổ sung thêm men vi sinh để tạo thức ăn tự nhiên và xử lý môi trường nước ao nuôi.
Sau 25 – 30 ngày ương nuôi khi cá đạt cỡ 1,5 – 2 cm/con (giai đoạn cá hương) có thể tiến hành thu tỉa để bán. Nếu để ương đến giai đoạn cá giống 4 – 6 cm/con thì phải san thưa ½ số lượng cá trong ao để đảm bảo cá sinh trưởng và phát triển tốt.
Dùng lưới cá hương thu dần, thao tác nhẹ nhàng, không làm cá bị xây xát. Nên thu hoạch vào buổi sáng sớm hoặc ngày mát trời.
Lê Loan