Các thử nghiệm bổ sung L-selenomethionine vào thức ăn cho cá rô phi tại Thái Lan cho thấy hiệu suất chăn nuôi tăng, đồng thời nâng cao khả năng chống lại các mầm bệnh.
Selenium (Se) là một yếu tố vi khoáng thiết yếu vì chúng là thành phần quan trọng cấu tạo nên selenoenzsymes (ví dụ glutathione peroxidase, GPx) giữ vai trò quan trọng trong việc làm giảm nồng độ gốc tự do ôxy hóa (ROS) và duy trì tình trạng kháng ôxy hóa.
Duy trì trạng thái ổn định selenium tối ưu
Selenium có thể được bổ sung vào khẩu phần ăn dưới dạng vô cơ hoặc hữu cơ. Lợi ích của selenium hữu cơ (L-selenomethionine, L-SeMet) vượt trội hơn các nguồn vô cơ (sodium selenite hoặc selenite) ở khả năng kết hợp trực tiếp, không bị biến đổi với protein trong cơ thể như một nguồn methionine.
L-selenomethionine là một hợp chất selenium duy nhất có khả năng này. Selenium được kết hợp dưới dạng L-selenomethionine, sẽ thúc đẩy tích trữ selenium trong cơ thể vật nuôi, đảm bảo nguồn cung tối ưu, thậm chí suốt giai đoạn bị stress. Nếu cần thiết, selenium được tích trữ sẽ trao đổi chất thành selenide (H2Se) sau đó chuyển thành selenocysteine (SeCys); phân tử này sẽ kết hợp như một vị trí hoạt động trong selenoproteins. L-selenomethionine chỉ được trao đổi chất thành senenide khi cần thiết; dạng chất này, do đó ít có nguy cơ bị bài tiết hoặc gây phản ứng độc hại (RAyman, 2004).
Cần thiết trong chế độ ăn chứa đạm thực vật
Bột cá là nguồn protein truyền thống trong thức ăn thủy sản. Do nguồn cung hạn chế, áp lực lên trữ lượng cá tự nhiên và giá đắt đỏ, ngành dinh dưỡng buộc phải tìm kiếm nguồn protein thay thế, bền vững hơn. Nồng độ selenium của thịt cá (fillet) bị tác động rất lớn bởi hàm lượng của chất bổ sung, từ đó làm giảm giá trị gia tăng của tiêu thụ cá (Lundebye et al. 2017; Betancor et al.2016).
Mặc dù hàm lượng selenium đang giảm trong cơ thể cá, nhu cầu sử dụng selenium để chống lại stress ôxy hóa vẫn không thay đổi. Các yếu tố gây stress (môi trường, trao đổi chất…) ảnh hưởng đến năng suất và lợi nhuận của các trại nuôi thủy sản. Các yếu tố stress này có thể gây ra sự tăng cường phá hủy ôxy hóa lipids, protein và DNA và làm tăng sự vận chuyển chất khoáng từ các mô và sự bài tiết ngay sau đó. Do đó, stress càng nặng, càng làm tăng nhu cầu chất khoáng. L-selenomethionine được thiết lập để trở thành nguồn selenium luôn dồi dào, từ đó tăng cường tích trữ selenium hơn so các nguồn selenium vô cơ; do đó, nó có thể chống lại tình trạng suy giảm selenium gây ra bởi các chế độ ăn chứa đạm thực vật.
Kiểm soát stress
Một nghiên cứu gần đây, thực hiện tại Đại học Mahasasakham, Thái Lan đã chỉ ra hiệu suất chăn nuôi tăng cao và khả năng chống lại mầm bệnh được cải thiện khi sử dụng phụ gia L-selenomethionine. 735 con cá rô phi sông Nile (trọng lượng ban đầu 13,52 + 0,5 g) được cho ăn theo 7 nghiệm thức, lặp lại 3 lần, trong bể sợi thủy tinh suốt 8 tuần. Se hữu cơ (L-selenomethionine, SeMet; Excential Selenium 4000, Orffa Additives BV) và Se vô cơ (sodium selenite, Na2SeO3) được bổ sung vào chế độ ăn cơ bản theo tỷ lệ 1, 3 và 5 mg Se/kg. Chế độ ăn cơ bản (28% protein thô) không bổ sung Se được sử dụng làm khẩu phần đối chứng.
Nồng độ Se cuối cùng của khẩu phần ăn cơ bản là 0,68 mg Se/kg. Các khẩu phần ăn bổ sung Se vô cơ và hữu cơ lần lượt chứa 1,78; 3,53 và 4,90 mg Se/kg và 1,75; 3,49 và 5,30 mg Se/kg. Cá được cho ăn theo tỷ lệ bằng 5% trọng lượng cơ thể, 2 lần/ngày. Các chỉ tiêu được đánh giá vào cuối giai đoạn nuôi thử nghiệm. Sau 8 tuần, 20 con cá từ mỗi nghiệm thức sẽ được thử thách với virus gây bệnh Streptococus agalactiae serotype III qua đường tiêm vào màng bụng theo liều lượng 1×107 = CFU/ml. Tỷ lệ chết lũy kế được quan sát trong 21 ngày và tỷ lệ sống tương đối (RPS) được tính toán.
Trọng lượng tăng (WG) của cá được ăn SeMet theo tỷ lệ 1 mg Se/kg cao hơn hẳn nhóm cá ăn theo chế độ cơ bản (p < 0,05). Tế bào bạch cầu lympho cao hơn hẳn (p < 0,05) ở những con cá được ăn SeMet (1 mg Se/kg) so với nhóm ăn theo khẩu phần cơ bản. Alanine transaminase (ALT), aspartate transaminase (AST), creatinine, blood urea nitrogen (BUN), albumin, globulin và protein tổng không bị ảnh hưởng bởi chế độ ăn bổ sung Se.
Tăng hàm lượng Se dinh dưỡng, đặc biệt dạng SeMet, sẽ làm tăng nồng độ serum cholesterol. Điều thú vị là, đáp ứng miễn dịch bẩm sinh (ví dụ hoạt tính của lysozyme, catalase, myeloperoxidase, superoxide dismutase và glutathione peroxidase) đã tăng đáng kể (p < 0,05) khi thức ăn được bổ sung Se so nhóm chế độ ăn cơ bản; đặc biệt với những con cá được ăn bổ sung SeMet (1 và 3 mg Se/kg). Malondialdehyde (MDA), một chỉ dẫn sinh học rõ ràng của stress ôxy hóa giảm rất mạnh ở tất cả các nghiệm thức bổ sung Se. Cá được ăn SeMet (1 mg Se/kg) đạt RPS cao nhất sau khi thử thách S.agalactiae.
Brecht Bruneel
Giám đốc kỹ thuật, Orffa Additives BV