(TSVN) – Trong nuôi trồng thủy sản (NTTS), kháng sinh là yếu tố không thể thiếu giúp kiểm soát vi khuẩn gây bệnh. Tuy nhiên, việc sử dụng kháng sinh cũng tồn tại tác động tiêu cực và hạn chế nhất định. Từ đó, liệu pháp page được biết đến là phương pháp tiềm năng để kiểm soát bệnh hiệu quả.
Mặc dù kháng sinh có thể điều trị hầu hết các bệnh nhiễm khuẩn, nhưng nó cũng có những hạn chế khi sử dụng. Kháng sinh tấn công vào tất cả các tế bào vi khuẩn có trong môi trường. Có nghĩa là cả vi khuẩn gây bệnh và lợi khuẩn đều bị tiêu diệt, dẫn đến những hạn chế về môi trường và sinh học. Ngoài ra, kháng kháng sinh (AMR) đang là một vấn đề lớn. Việc chuyển gen kháng giữa các vi khuẩn đã được ghi nhận rõ ràng và đang trở thành một vấn đề cấp bách đối với sức khỏe động vật và con người. Với những xu hướng này, các nhà nghiên cứu đang tìm hiểu các lựa chọn các liệu pháp thay thế cho liệu pháp kháng sinh.
Bacteriophage là virus lây nhiễm vào vi khuẩn. Liệu pháp bacteriophage (Liệu pháp phage) đã được các nhà khoa học nghiên cứu tiềm năng trị liệu của nó trong nhiều thập kỷ nhưng chưa được triển khai rộng rãi. Theo các nhà sinh học, phage được phân thành 2 loại: phage độc và phage lành. Khi phage độc lây nhiễm vi khuẩn, nó sẽ phá vỡ thành tế bào và vật chủ. Quá trình này hạn chế khả năng chuyển gen, nên phage độc là lựa chọn lý tưởng để điều trị các bệnh do vi khuẩn. Ngược lại, các phage lành không phá hủy ngay tế bào chủ. Thay vào đó, các phage sẽ chèn bộ gen của chúng vào tế bào vi khuẩn, tạo ra nhiều bản sao có bộ gen của phage trước khi phá vỡ. Loại nhiễm trùng này có liên quan đến chuyển gen ngang và không nên sử dụng để điều trị các bệnh do vi khuẩn.
Bacteriophage. Ảnh: Thefishsite
Liệu pháp phage có tính đặc hiệu cao và tác dụng diệt khuẩn nhanh. Các thể thực khuẩn tự sao chép có tính ổn định, độc tính thấp và chi phí sản xuất thấp. Những thuộc tính này khiến cho liệu pháp phage trở thành một công nghệ rất hấp dẫn đối với ngành NTTS. Nghiên cứu với ấu trùng tôm sú cho thấy việc sử dụng phage của Vibrio harveyi đã cải thiện tỷ lệ sống của ấu trùng gần gấp đôi so với nhóm được điều trị bằng hỗn hợp kháng sinh.
Tuy nhiên, hầu hết, phage chỉ cảm nhiễm một loại vi khuẩn. Nên nếu vi khuẩn khác hơn loài đích mà phage có tác dụng thì liệu pháp phage sẽ không hoạt động. Chỉ có một khả năng là sử dụng hỗn hợp phage để giải quyết nhiều bệnh khác nhau do nhiều loại vi khuẩn khác nhau gây ra. Mới đây, các nhà nghiên cứu đến từ Đại học Tự trị Nuevo León, Trung tâm Nghiên cứu Thực phẩm và Phát triển AC và Đại học Girona đã thực hiện nghiên cứu hỗn hợp phage trong việc chống lại vi khuẩn Vibrio trên ấu trùng TTCT. Trong quá trình thử nghiệm, tôm giống có nguồn gốc từ trại sản xuất giống thương mại và được phân phối ngẫu nhiên vào 4 nhóm. Nhóm đầu tiên (PVAB) bị cảm nhiễm với vi khuẩn Vibrio (V. alginolyticus, V. diabolicus và V. parahaemolyticus) và không được điều trị bằng liệu pháp phage. Nhóm thứ hai (PVAP) bị cảm nhiễm với các vi khuẩn Vibrio và được điều trị bằng hỗn hợp phage. Nhóm thứ ba (PVAT) gồm ấu trùng tôm bị nhiễm Vibrio và được điều trị bằng hỗn hợp phage thứ hai. Và cuối cùng là nhóm đối chứng có tôm không bị nhiễm Vibrio.
Kết quả cho thấy, số lượng Vibrio trong nước ở những nhóm không được điều trị bằng hỗn hợp phage cao hơn đáng kể so với nhóm được điều trị. “Tương tự như vậy, không có phage nào được phát hiện trong các nhóm không được điều trị, điều này cho thấy rằng không có sự hiện diện tự nhiên của chúng, trong khi các nhóm được điều trị bằng hỗn hợp phage cho thấy mật độ ổn định”, các nhà nghiên cứu chia sẻ thêm.
Ngoài ra, sau khi kiểm tra mô bệnh học, các nhà nghiên cứu cũng kết luận, tôm được xử lý bằng hỗn hợp phage ít bị tổn thương hơn. Cả hai phage đều có khả năng ức chế sự phát triển của các loài Vibrio gây bệnh trong điều kiện in vitro và in vivo. Ngoài ra, hỗn hợp phage đã ức chế một cách hiệu quả và có chọn lọc các vi khuẩn thuộc họ Vibrionaceae trong ấu trùng tôm.
Lê Loan
Theo Thefishsite