(TSVN) – Kháng kháng sinh (AMR) là mối đe dọa ngày càng tăng đối với sức khỏe cộng đồng. Hạn chế sử dụng kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản góp phần loại bỏ AMR trên toàn cầu.
Với nỗ lực tăng nhanh sản lượng thủy sản và kim ngạch xuất khẩu, các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam rất chú trọng tới nuôi trồng thủy sản. Ðể đạt được sản lượng và lợi nhuận cao nhất, đại bộ phận người dân hiện đang áp dụng các phương thức nuôi thâm canh. Tuy nhiên, với hình thức này, vật nuôi lại bị ảnh hưởng nhiều bởi áp lực môi trường và dịch bệnh, gây chết hàng loạt. Trong số các bệnh của thủy sản thì nguyên nhân chủ yếu là do vi khuẩn gây ra với những bệnh có tính chất nguy hiểm. Để khắc phục tình trạng này, thông thường, người nuôi sẽ sử dụng thuốc kháng sinh để kiểm soát các vi khuẩn gây bệnh.
Kháng sinh là những hợp chất có thể tiêu diệt hoặc ngăn cản sự tăng trưởng của các vi sinh vật như vi khuẩn, nấm mốc hoặc động vật nguyên sinh. Tuy nhiên, do việc sử dụng không đúng cách và quá nhiều các loại thuốc kháng sinh nên đã gây ra hiện tượng vi khuẩn kháng thuốc (antibiotic resistence) và tích tụ dư lượng thuốc kháng sinh trong sản phẩm thủy sản. Một nguyên nhân khác gây ra hiện tượng vi khuẩn kháng thuốc là việc sử dụng các loại kháng sinh với hàm lượng nhỏ trong thức ăn của thủy sản như một chất kích thích sinh trưởng.
Hiện tượng kháng kháng sinh là khả năng mà một sinh vật có thể chịu được tác động của các loại kháng sinh. Gen kháng thuốc thường có sẵn trong các loài vi sinh vật tạo ra kháng sinh (antibiotic – producing – bacteria) nhằm bảo vệ chúng khỏi tác động của kháng sinh này. Những gen này có thể được hình thành trong các loài vi khuẩn khác thông qua sự trao đổi gen với một vi khuẩn tạo ra kháng sinh, do vậy chúng có khả năng tạo ra cơ chế làm trung hòa hoặc phá hủy các loại thuốc kháng sinh.
Theo một nghiên cứu trên tôm nuôi của Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản 1 cho thấy, vi khuẩn Vibrio sp (n=20) kháng hoàn toàn với Oxacillin (80,3%), Novobiocin (72,3%), Erythromycin, Tetracycline (87,2%); Vibrio sp (n=15) kháng cao với Oxytetracycline (86,7%), Ampiciline (81,2%) và Rifampicin (91,2%). Cũng theo một nghiên cứu tại Nghệ An đã xác định có khoảng 15 loại kháng sinh được sử dụng dưới hình thức cho ăn (liều lượng 1,4 – 6 g/kg thức ăn), hình thức té xuống ao (1 kg/1.000 m3); Xác định được V.parahaemolyticus (n=9) gây bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND) kháng hoàn toàn Ampicilline, 90,9% kháng Neomycin, 66,7%; Erythromycine và 55,6% kháng Tetracyclie; V. parahaemolyticus (n=9) không gây bệnh AHPND kháng đồng thời 4 loại thuốc, 22,2% (6 loại) và 11,1% (5 loại).
Hay trên cá tra nuôi nước ngọt, vi khuẩn E.ictaluri (n=64) kháng cao với Chloramphenicol và Florfenicol (94,03%), Tetracycline (92,54%), Streptomycin (74,63%), Enrofloxacin (71,64%), Gentamicin và Norfloxacin (46,27%); A. hydrophila (n=64) kháng hoàn toàn với Ampicillin, Amoxicillin và Cefalexin (100%), Tetracycline (90,54%), Florfenicol (60,81%) và Neomycin (54,05%); Tần số xuất hiện các gen kháng Florfenicol là 72,5% và 87,5%; Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu cho thấy vi khuẩn A. hydrophila và E. ictaluri có khả năng truyền gen kháng thuốc của chúng sang vi khuẩn E. coli trong môi trường ao nuôi cá tra.
Kháng sinh vốn dĩ được dùng để chữa bệnh, tuy nhiên, rất nhiều hộ nuôi đã sử dụng như một cách phòng ngừa. Vì vậy, để kiểm soát và ngăn chặn tình trạng kháng kháng sinh, người nuôi cần lưu ý, tuyệt đối không dùng thuốc kháng sinh để phòng bệnh; Thực hành nuôi tốt, quản lý/giám sát môi trường nuôi đúng kỹ thuật. Lựa chọn con giống cơ sở có uy tín; Ghi chép nhật ký nuôi, sử dụng thuốc/hóa chất; Không nhận thông tin tư vấn khi không có hoạt động thu mẫu tôm/cá trong ao/đầm mình; Không điều trị khi không được chẩn đoán; Loại thuốc được chỉ định dùng sau khi thực hiện các bước: 1) Thu mẫu động vật thủy sản tại hộ nuôi, 2) Phân tích nuôi cấy được vi khuẩn, 3) Lập kháng sinh đồ; Dừng sử dụng 7 – 14 ngày trước khi thu hoạch.
Sử dụng các sản phẩm probiotics để cải thiện hệ vi sinh vật của ao nuôi.
Đối với nhà nghiên cứu, cần đẩy mạnh nghiên cứu tạo ra giống vật nuôi kháng bệnh; Tạo được các sản phẩm thay thế kháng sinh; Rút ngắn thời gian chẩn đoán để cho phép lựa chọn thuốc kháng sinh thích hợp.
Bên cạnh đó, các cơ quan, nhà quản lý cần đẩy mạnh quy định bán kháng sinh; Kiểm tra giám sát hiệu quả cơ sở bán thuốc…; Kiểm soát hiệu quả sản phẩm probiotics; Tuyên truyền đến người nuôi thông tin về nguyên tắc sử dụng thuốc kháng sinh và áp dụng đúng các phương pháp sử dụng thuốc kháng sinh trong trị bệnh, loại thuốc được dùng; Thuyết phục, hướng dẫn người nuôi tôm/cá theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP.
>> Năm 2017, Bộ NN&PTNT ban hành kế hoạch hành động quốc gia về quản lý sử dụng kháng sinh và phòng chống kháng kháng sinh trong chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản; trong đó, Cục Thú y được giao làm đầu mối. Đến nay, Cục đã tiến hành thủ tục thành lập đội kỹ thuật, tiểu ban về kháng kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản; làm việc với các chuyên gia nhằm xây dựng chương trình về kháng kháng sinh. |