(TSVN) – Trong bối cảnh nghề nuôi tôm tại Việt Nam, đặc biệt là ở Đồng bằng sông Cửu Long, đang đối mặt với hàng loạt thách thức như suy giảm chất lượng nước, ô nhiễm môi trường, chi phí sản xuất tăng cao và dịch bệnh phức tạp, việc tìm kiếm các mô hình nuôi tôm bền vững, hiệu quả và thân thiện môi trường là yêu cầu cấp thiết.
Mô hình nuôi tôm tuần hoàn tích hợp đa loài không xả thải (IMTA-RAS) do nhóm tác giả N. Nhut và N.T. Tung nghiên cứu và công bố trên tạp chí quốc tế “Aquacultural Engineering” (Nhut and Tung, 2025) đã mở ra một hướng đi mới đầy tiềm năng cho ngành thủy sản Việt Nam.
Khác với hình thức nuôi tôm truyền thống vốn tiêu tốn lượng lớn nước và phát thải đáng kể ra môi trường, mô hình IMTA-RAS hoạt động hoàn toàn theo nguyên lý tuần hoàn khép kín, tích hợp nuôi các loài sinh vật khác nhau gồm tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei), cá rô phi (Oreochromis niloticus), rong biển xanh (Cladophora glomerata) và rong đỏ (Gracilaria tenuistipitata). Sự kết hợp này không chỉ giúp xử lý chất thải hữu cơ và vô cơ một cách tự nhiên mà còn nâng cao hiệu quả sử dụng dinh dưỡng, cải thiện chất lượng nước và tạo ra các sản phẩm phụ có giá trị kinh tế.
Trong suốt chu kỳ nuôi 124 ngày, hệ thống không sử dụng nước mới, không xả thải ra môi trường và không cần thay nước, thể hiện ưu thế vượt trội về bảo vệ môi trường và an toàn sinh học. Tỷ lệ sống của tôm đạt 62,2% và đạt cỡ thương phẩm trung bình 50,3g/con, tương đương năng suất 6,9 kg/m². Đặc biệt, hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) ở mức 1,59 cho thấy khả năng sử dụng thức ăn hiệu quả. Bên cạnh đó, cá rô phi và rong biển phát triển tốt nhờ sử dụng chất thải từ tôm, mang lại thêm giá trị kinh tế khoảng 6,46% tổng doanh thu.
Một trong những điểm nổi bật của mô hình là khả năng tận dụng và tái sử dụng chất dinh dưỡng trong hệ thống. Khoảng 45,9% tổng lượng nitơ và 27,6% tổng lượng phospho được giữ lại trong sinh khối tôm, cá và rong biển. Điều này cho thấy khả năng giảm thiểu tác động môi trường của mô hình và hướng tới việc sử dụng tài nguyên đầu vào một cách hiệu quả.
Về mặt chất lượng sản phẩm, 100% tôm và cá sau thu hoạch đều đạt tiêu chuẩn xuất khẩu về màu sắc, mùi vị và kích cỡ. Các chỉ số như hàm lượng protein, khoáng và chất béo trong sinh khối đều cao, có thể phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau từ tiêu dùng tươi sống đến chế biến và chiết xuất dưỡng chất.
Không chỉ đạt hiệu quả sinh học và kinh tế, mô hình IMTA-RAS còn chứng minh được tính khả thi cao khi vận hành: Thiết kế hệ thống đơn giản, sử dụng thiết bị phổ thông như bể nhựa lót HDPE, máy sục khí, máy bơm tuần hoàn và không yêu cầu kỹ thuật vi sinh phức tạp. Do đó, mô hình hoàn toàn phù hợp với các hộ nuôi quy mô vừa và nhỏ, dễ triển khai tại các vùng ven biển, vùng chuyển đổi hoặc vùng nuôi bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu.
Từ kết quả nghiên cứu này, có thể khẳng định mô hình IMTA-RAS là một giải pháp nuôi tôm bền vững trong tương lai. Mô hình này không chỉ giảm thiểu chi phí vận hành, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên mà còn phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế xanh, giảm phát thải và bảo vệ hệ sinh thái thủy vực. Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam hướng tới mục tiêu phát triển nghề nuôi thủy sản công nghệ cao, thân thiện môi trường, mô hình IMTA-RAS cần được quan tâm đầu tư, chuyển giao công nghệ và nhân rộng ứng dụng trong thực tiễn.
Để nhân rộng mô hình, cần sự phối hợp giữa các viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp trong việc cải tiến công nghệ, chuẩn hóa quy trình kỹ thuật, lồng ghép hệ thống năng lượng tái tạo (như điện mặt trời), tích hợp công nghệ số (IoT) để giám sát tự động chất lượng nước, sinh trưởng và dịch bệnh. Bên cạnh đó, cơ quan quản lý cần ban hành chính sách hỗ trợ tài chính, tín dụng xanh, đào tạo kỹ thuật và xây dựng mô hình trình diễn tại các địa phương trọng điểm nuôi tôm.
Tóm lại, mô hình nuôi tôm tuần hoàn tích hợp đa loài IMTA-RAS không chỉ là bước tiến về mặt kỹ thuật mà còn là chiến lược phát triển bền vững cho ngành tôm Việt Nam. Mô hình xứng đáng được khuyến khích nhân rộng nhằm hướng tới một ngành thủy sản hiện đại, thân thiện môi trường và có khả năng thích ứng cao trước những biến động của thị trường và khí hậu.
Trích từ nguồn tạp chí Aquaculture Engineering Journal
Tài liệu tham khảo
Nhut, N., Tung, N.T., 2025. Design and performance of a zero-discharge integrated multi-trophic aquaculture recirculation system for the intensive culture of whiteleg shrimp (Litopenaeus vannamei). Aquac Eng 102589. https://doi.org/10.1016/j.aquaeng.2025.102589.
Nguyễn Thanh Tùng và Nguyễn Nhứt