Một ngày cuối tháng 5, tôi lên tàu QN 90183TS của thuyền trưởng Đào Văn Thuân, xuất phát từ cảng Thanh Lân (Cô Tô) thẳng tiến ra vùng đánh cá chung Vịnh Bắc Bộ. Nghề làm báo cho tôi nhiều cơ hội được đi, đến và thấy nhiều vùng đất nhưng có lẽ chuyến theo tàu đi câu khơi lần này để lại cho tôi nhiều cảm xúc nhất về điểm đến giữa muôn trùng sóng gió, nơi đem lại những khoang cá bạc cho từng đoàn tàu của ngư dân.
Xung trận
Sau gần nửa tháng tránh gió Nam tại cảng Thanh Lân (Cô Tô), thuyền trưởng tàu QN 90183TS Đào Văn Thuân đã hạ lệnh cho các thuyền viên nhổ neo, nhằm hướng vùng đánh cá chung Vịnh Bắc Bộ thẳng tiến. Con tàu sau nhiều ngày ủ dột nằm bờ, nay đạp sóng ra khơi trong khí thế hăm hở của một chiến binh xung trận muốn gặt hái nhiều thắng lợi. Giữa mênh mông sóng nước, thuyền trưởng cũng như các thuyền viên trên tàu rôm rả với câu chuyện về những chuyến khai thác bội thu, những chú cá lớn khiến người thu câu ngạc nhiên và không khỏi sung sướng.
Tàu của anh Đào Văn Thuân chuẩn bị xuất bến đi câu khơi.
Trong chuyến ra khơi này, thuyền trưởng Thuân đã quyết định phải tìm và “săn” cho bằng được đàn cá mú. Vì theo kinh nghiệm nhiều năm đi biển của anh, trong điều kiện gió Nam không lớn của những ngày cuối tháng 5 là điều kiện thích hợp cho nghề câu khơi và những ngày này, người đi câu sẽ có cơ may gặp được những đàn cá nổi lớn, chủ yếu là cá mú, cá song – những loại cho giá trị rất cao. Sau 12 giờ lướt thuyền trên sóng, vượt hơn 80 hải lý, người thuyền trưởng lão luyện nhiều năm lăn lộn với nghề câu khơi đã “dò” ra khu vực thích hợp để thả câu. Lúc này trời cũng bắt đầu tối, thuyền trưởng lệnh cho các thuỷ thủ hạ neo. Mỗi người một việc, trong khi một thuỷ thủ lo bữa cơm tối thì các thuỷ thủ khác chuẩn bị để thả câu. Tất cả mọi công việc từ chuẩn bị mồi, cờ hiệu, phao nổi, đèn hiệu… được các thuyền viên chuẩn bị chu đáo. Thuyền trưởng Thuân cho biết: “Tất cả các bước cho thả câu đều phải thực hiện đúng quy trình, thao tác, trong đó, công đoạn chuẩn bị mồi câu là rất quan trọng. Mồi câu cá mú, cá song phải là mồi sống, đó là cá rìa, cá tạp còn sống”. Cơm nước xong xuôi, theo sự chỉ đạo của thuyền trưởng, ai vào việc nấy, người cắt dây câu nhánh, người tạo liên kết cố định trên dây câu chính, tạo mồi, xâu chì, tạo ganh câu, rồi liên kết các bộ phận… Tất cả đều được các thuyền viên thao tác một cách thuần thục.
Cuộc đi săn bắt đầu. Thay vì điều khiển con tàu, thuyền trưởng Thuân giao nhiệm vụ cho thuyền phó lái tàu, thuyền trưởng đứng trước mũi tàu, dùng đèn pin soi về phía trước quan sát trước mũi, sau đó quyết định cho tàu chạy đề về phía bên phải, vì theo kinh nghiệm và màu nước biển với những ánh bạc sáng nổi lên theo từng con sóng nhỏ trong đêm, anh tin chắc hướng đi này sẽ thu được nhiều cá hơn. Thuyền trưởng Thuân liên tục pha đèn chỉ hướng cho tàu di chuyển về phía đàn cá; con tàu liên tục được vị thuyền phó bẻ lái, sang trái rồi sang phải, rồi lại thẳng tiến theo hướng của đèn soi, tàu đi đủ chậm cho các thuyền viên phía sau thả câu. Đầu tiên là lá cờ hiệu được thả rồi buộc dây ganh, móc và thả mồi câu; tiếp đến là móc và thả dây ganh… Cứ như thế, qua bàn tay thoăn thoắt, hối hả của các thuỷ thủ, cả 3 loại câu trên tàu, mỗi câu với vài trăm lưỡi câu, chiều dài dây câu từ 15 đến gần 40km được thả xuống biển chờ những con mú, con song mắc câu. Thả câu xong là thời gian ngâm câu. Lúc này, cả thuyền trưởng và thuyền viên có chút thời gian thư thái và xen lẫn chút hồi hộp sau mỗi lần thăm câu. Không phải ai cũng được thăm câu. Để biết được cá đã cắn câu nhiều hay ít phải là người có nhiều kinh nghiệm thăm câu. Nói như một thuyền viên trên tàu QN 90183TS thì người thăm câu không những phải “sát cá” mà còn ranh mãnh, tường tận trong phán đoán.
Sau gần 2 tiếng ngâm câu với nhiều lần thăm câu, thuyền trưởng đã quyết định cho các thuyền viên thu câu. Quả đúng như dự đoán của người thuyền trưởng, con nước này chủ yếu là cá mú, cá song. Cặp câu đầu tiên được thu lên, trong số 120 lưỡi câu đã có gần 20 con cá mú, một ít cá song. Còn lại là những con cá phèn, cá tráp lấp lánh ánh bạc. 8 thuyền viên trên tàu, người thu câu, người sắp xếp, phân loại cá đưa xuống hầm bảo quản. Sau hơn 1 giờ thu lưới, toàn bộ 30 cặp câu đã được đưa lên boong tàu. Cá được phân loại và bảo quản đảm bảo sống để bán được giá cao hơn. Mẻ câu thứ nhất kết thúc cũng là lúc bình minh soi sáng mạn tàu. Hơn 3 tạ cá, đó là thành quả của một đêm khai thác. Thuyền trưởng cho hạ neo, tắt máy. Các thuỷ thủ người thì tiếp tục phân loại cá, người thì chuẩn bị bữa ăn sáng, người chuyển cá cho tàu thu mua hải sản; người khác vệ sinh tàu và chỉnh sửa câu, chuẩn bị cho đêm câu sau.
Cá câu được ngư dân bảo quản cẩn thận để bán với giá cao hơn.
Trăn trở vươn khơi, bám biển
Chuẩn bị cho đêm thả câu thứ hai, trong bữa cơm chiều có món gỏi “trăn biển” rán (cách gọi của ngư dân về cá trình biển), thuyền trưởng Đào Văn Thuân không khỏi trầm ngâm bởi mơ ước vươn ra khai thác xa hơn của anh và bà con ngư dân chưa thực hiện được là bao. Vốn là con nhà nghề, thuyền trưởng Đào Văn Thuân đã sớm quen với nghề câu khơi qua những chuyến bám biển của người cha giàu kinh nghiệm. Lúc lập gia đình ra ở riêng, anh đã đóng tàu để bám biển. Thế nhưng tàu bé, không đủ sức đương đầu với sóng gió, không cạnh tranh được với tàu nước ngoài nên mỗi chuyến khai thác, khi thì có lãi, khi thì chỉ đủ bù chi phí nhân công và chi phí nhiên liệu. Xoay sở đủ cách vẫn không trụ được anh bỏ tàu, đi làm thuê cho một công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản liên doanh với nước ngoài, đảm đương công việc khai thác tuyến khơi. Đây cũng là cơ hội tốt để anh học hỏi kinh nghiệm nghề câu vàng tuyến khơi của nước ngoài. Thôi vị trí làm thuê, anh tiếp tục đóng tàu, vận dụng những kinh nghiệm học hỏi được, quyết tâm bám biển. Hiện nay, qua nhiều lần nâng cấp, anh đã đóng mới được tàu có công suất 135CV, tham gia đánh cá tại vùng đánh cá chung Vịnh Bắc Bộ. Anh Thuân cho hay: “Bình quân, mỗi chuyến khai thác, chi phí nhiên liệu, mồi câu và công lao động ít nhất cũng từ 40 triệu đồng trở lên. Nếu như những năm trước, ngư trường cho nghề câu còn thuận lợi, mỗi chuyến khai thác từ 7-15 ngày, trừ chi phí cũng lãi được 20-25 triệu đồng/chuyến. Nay, trong vùng đánh cá chung tàu nhỏ, kỹ thuật đánh bắt còn hạn chế nên không thể cạnh tranh với tàu cá của ngư dân Trung Quốc. Khi biển động với gió cấp 6 là không ra khơi được. Anh Thuân còn cho biết thêm, được sự quan tâm của địa phương, của ngành chức năng, Nghiệp đoàn nghề cá phường Tân An (Quảng Yên) được thành lập với 16 phương tiện tàu thuyền tham gia đánh bắt thuỷ sản tuyến khơi, trong đó có 2 tàu làm nghề thu mua hải sản. Tuy nhiên, tất cả 16 tàu đều có công suất nhỏ, chỉ từ 105CV đến dưới 150CV nên nói là khai thác tuyến khơi nhưng vẫn không đủ sức bám biển. Mơ ước vươn ra khai thác xa hơn vẫn là bài toán khó cho những ngư dân tâm huyết như anh Thuân và bà con ngư dân trong tỉnh.
Mang nỗi trăn trở của bà con ngư dân, chúng tôi trao đổi với ông Đỗ Đình Minh, Trưởng phòng Quản lý Khai thác thuỷ sản (Chi cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản) thì được biết, hiện nay, trong tổng số gần 11.000 phương tiện khai thác thuỷ sản trong tỉnh thì chỉ có hơn 160 tàu có công suất từ 90CV trở lên tham gia hoạt động khai thác thuỷ sản tuyến khơi. Mặc dù nhà nước đã có nhiều chính sách hỗ trợ bà con ngư dân như đóng mới tàu thuyền; xăng dầu, bảo hiểm thuyền viên cho các tàu khai thác thuỷ sản trên các vùng biển xa… Song, trong điều kiện khó khăn, bà con ngư dân lại càng khó tiếp cận với những chính sách hỗ trợ của nhà nước. Một phần nguyên nhân cũng bởi các thủ tục chính sách để bà con ngư dân thực hiện được các quy định để hưởng chính sách khá phức tạp. Đến nay, cả tỉnh mới chỉ có 1 tàu của ngư dân Vân Đồn hoàn thiện được các thủ tục để được hỗ trợ theo Quyết định 48 của Thủ tướng Chính phủ.
Vụ cá Nam đã tới, đây là thời điểm thuận lợi cho bà con ngư dân khai thác trên các vùng biển xa. Ai cũng nung nấu trong mình quyết tâm. Song, để đương đầu với sóng gió nơi biển xa, bà con ngư dân trong tỉnh cần nhiều hơn nữa sự hỗ trợ của địa phương, ngành chức năng để mỗi chuyến ra khơi là một lần cá bạc đầy khoang, mang no ấm cho các thành viên và gia đình họ.