(TSVN) – Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, từ năm 2020 – 2025, các doanh nghiệp, cơ sở đã sản xuất, cung ứng giống tôm nước lợ từ 152,4 – 160,8 tỷ con/năm. Tuy nhiên, để ngành hàng này phát triển bền vững cần tập trung cho nghiên cứu khoa học công nghệ để tạo nguồn tôm giống nước lợ sạch bệnh, chất lượng cao, nhất là chọn tạo đàn tôm bố mẹ.
Đó là một trong những nội dung chính được thảo luận tại Hội nghị phát triển tôm giống nước lợ do Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với UBND tỉnh Khánh Hòa tổ chức ngày 16/10. Thứ trưởng Phùng Đức Tiến tham dự và phát biểu chỉ đạo.
Tại Hội nghị, các đại biểu đã nghe và thảo luận về kết quả phát triển giống tôm nước lợ giai đoạn 2020 – 2025, kế hoạch phát triển giai đoạn 2026 – 2030; kết quả nhập khẩu tôm bố mẹ, kiểm dịch giống tôm nước lợ từ năm 2020 đến nay, định hướng quản lý giai đoạn 2026 – 2030; kết quả các nhiệm vụ khoa học công nghệ trong chọn tạo giống tôm nước lợ những năm qua, định hướng trong nghiên cứu nhằm nâng cao chất lượng giống tôm nước lợ trong thời gian tới; một số bước tiến trong nghiên cứu sản xuất giống tôm nước lợ; công tác quản lý giống tôm tại các địa phương…
Chia sẻ tại Hội nghị, ông Trần Đình Luân, Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư cho biết, hiện cả nước có 1.577 cơ sở sản xuất và ương dưỡng tôm giống, tập trung chủ yếu tại các tỉnh Khánh Hòa, Lâm Đồng, Cà Mau và Vĩnh Long, chiếm tới 93% tổng số cơ sở và hơn 63% sản lượng giống tôm cả nước. Riêng các tỉnh trọng điểm ương dưỡng giống gồm Khánh Hòa, Lâm Đồng, Vĩnh Long, Cà Mau và An Giang chiếm gần 90% tổng số cơ sở và 77% sản lượng toàn quốc.
Cùng đó, công tác quản lý chất lượng giống ngày càng được chú trọng. Nếu năm 2020, cả nước mới cấp được 660 giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất, ương dưỡng giống tôm (đạt 39,1%) thì đến năm 2024, con số này đã tăng lên 935 giấy (59,3%). Đến nay, 100% cơ sở đăng ký cấp giấy chứng nhận cơ sở sản xuất và ương dưỡng giống thủy sản đã công bố áp dụng tiêu chuẩn quốc gia (TCVN) hoặc tiêu chuẩn cơ sở, đồng thời thực hiện nghiêm việc công bố hợp quy giống tôm sú và tôm thẻ chân trắng.
Vùng sản xuất giống đáp ứng yêu cầu vừa tập trung vừa an toàn sinh học chưa có nhiều, cơ sở hạ tầng đã xuống cấp, chính sách hỗ trợ phát triển giống chưa đủ mạnh để thu hút đầu tư, đặc biệt về đất đai và vốn. Nguồn tôm bố mẹ trong nước vẫn chưa đáp ứng nhu cầu, hiện 87% tôm thẻ chân trắng bố mẹ phải nhập khẩu. Ngoài ra, một số cơ sở sản xuất, ương dưỡng chưa được kiểm tra, cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện, tình trạng lưu thông tôm giống không rõ nguồn gốc, chưa qua kiểm dịch vẫn còn tồn tại. Mức độ tuân thủ pháp luật trong sản xuất, cung ứng giống đã tiến bộ nhưng chưa đồng đều, vẫn còn cơ sở ương dưỡng chưa được cấp giấy đủ điều kiện. Hiện tượng giống không rõ nguồn gốc, chưa qua kiểm dịch vẫn xuất hiện; quản lý tôm bố mẹ khai thác tự nhiên khó khăn do sản xuất nhỏ lẻ…
Giai đoạn 2026 – 2030, dự báo ngành tôm phải đối diện nhiều thách thức như giá đầu vào biến động do địa chính trị; thời tiết cực đoan hơn (hạn hán, xâm nhập mặn); dịch bệnh trên tôm giống diễn biến phức tạp.
Theo các đại biểu, vấn đề tôm bố mẹ cũng là thách thức đối với không ít địa phương, nhất là tại những vùng sản xuất giống trọng điểm. Như chia sẻ của ông Lê Văn Quê, Chủ tịch Hiệp hội Giống thủy sản Ninh Thuận – Khánh Hòa, hầu hết doanh nghiệp tại địa phương đều phải nhập khẩu nguồn tôm bố mẹ từ các quốc gia khác đem về công ty để tổ chức sản xuất tôm giống con, cung ứng cho nhu cầu nuôi tôm thương phẩm. Trong khi chi phí nhập khẩu tôm bố mẹ cao (150 USD/cặp), nhưng thời gian tôm mẹ đẻ trứng chỉ có 140 ngày (từ 16 – 18 lần đẻ/con/chu kỳ), cho nên các cơ sở sản xuất rất mong muốn được các bộ, ngành trung ương, tỉnh sớm ban hành cơ chế, chính sách phù hợp như xây dựng các hình thức hợp tác, liên kết giữa các doanh nghiệp với các nhà nghiên cứu giống thủy sản để đầu tư, hình thành trung tâm sản xuất giống tôm bố mẹ có nguồn gốc xuất xứ của riêng địa phương. Điều này sẽ giúp cho các doanh nghiệp giảm chi phí mua giống bố mẹ, tránh những rủi ro như tôm mẹ nhập khẩu bị chết do mất sức trong thời gian “thuần và nuôi vỗ” hay trong thời gian đẻ… khiến cho doanh nghiệp bị thiệt hại.
Việc sản xuất được tôm bố mẹ không chỉ giúp cho doanh nghiệp thoát khỏi sự phụ thuộc vào nguồn giống phải nhập khẩu, mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiến tới làm chủ nguồn tôm bố mẹ có nguồn gốc xuất xứ mang thương hiệu Việt Nam, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất sản phẩm tôm giống địa phương đạt chất lượng cao, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường. Do đó, địa phương mong muốn Bộ Nông nghiệp và Môi trường tháo gỡ khó khăn cho các đơn vị khoa học công nghệ trong khâu chọn tạo tôm bố mẹ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đi đầu trong việc sản xuất tôm bố mẹ.
Để khai thác hiệu quả cơ hội, hạn chế rủi ro và đạt mục tiêu phát triển ngành tôm giai đoạn 2026 – 2030, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến yêu cầu các địa phương, đơn vị, hiệp hội và cơ sở sản xuất giống tôm nước lợ tập trung thực hiện nhiều nhiệm vụ trọng tâm.
Trước hết, các địa phương cần đầu tư, hoàn thiện cơ sở hạ tầng nghiên cứu, sản xuất và ương dưỡng giống tôm nước lợ theo hướng hiện đại, đủ năng lực chọn tạo giống bằng công nghệ tiên tiến. Bộ khuyến khích doanh nghiệp và tổ chức khoa học tham gia nghiên cứu, phát triển giống, nhất là tại các địa phương trọng điểm như Lâm Đồng, Khánh Hòa, Gia Lai, Đắk Lắk, An Giang.
Mặt khác, các địa phương cần quy hoạch quỹ đất phù hợp, khuyến khích doanh nghiệp liên kết với cơ sở nghiên cứu để chọn tạo, sản xuất tôm bố mẹ. Các mô hình hiệu quả như sản xuất tôm sú bố mẹ của Công ty Moana Ninh Thuận cần được nhân rộng, đồng thời khuyến khích đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất tôm thẻ chân trắng bố mẹ tại miền Trung. Nghiên cứu chọn tạo các dòng tôm bố mẹ tăng trưởng nhanh, thích ứng với biến đổi khí hậu, kháng bệnh, bảo đảm nguồn cung chất lượng cao cho nuôi thương phẩm.
Các cơ sở sản xuất phải được chứng nhận đủ điều kiện hoạt động, kiểm dịch, công bố tiêu chuẩn giống, đồng thời xử lý nghiêm các vi phạm về chất lượng. Cùng với đó, việc triển khai các giải pháp an toàn sinh học trong sản xuất, ương dưỡng giống tôm nước lợ là yêu cầu bắt buộc…
Hồng Hạnh
Trong 5 năm qua, sản lượng giống tôm nước lợ hàng năm đạt từ 152 - 160 tỷ con, trong đó giống tôm sú khoảng 38 - 42 tỷ con, tôm thẻ chân trắng 106 - 118 tỷ con, đáp ứng đủ nhu cầu trong nước và một phần phục vụ xuất khẩu.