(TSVN) – Thành công hay thất bại trong nuôi tôm thường phụ thuộc vào hiệu quả quá trình ngăn chặn và kiểm soát sự bùng phát của virus. An toàn sinh học cùng với các vấn đề về thiết kế, vận hành và đào tạo phù hợp tại các trang trại giúp giảm thiểu rủi ro từ virus.
Thiết kế trang trại cần phải phù hợp với hoạt động an toàn sinh học. Nước biển đầu vào được xử lý trong ao chứa trước khi sử dụng trong ao nuôi là một thiết kế hiệu quả. Nước từ một nguồn cung cấp cho các ao nuôi cần phải đi qua ít nhất hai ao xử lý trước khi chảy vào kênh đầu vào.
Tất cả các đầu vào và đầu ra của nước cần phải được bảo đảm tuyệt đối không bị rò rỉ. Lớp lót ao bằng polyetylen mật độ cao hoặc bê tông tăng cường an toàn sinh học. Để ngăn chặn những các vật thể mang virus xâm nhập vào các mô-đun, cần phải lắp đặt hàng rào ngăn cua và dây dọa chim. Cuối cùng, để đạt được khả năng gom chất thải, cần có một hệ thống thoát nước trung tâm.
Mỗi ao phải có mẫu thiết bị lấy nước riêng. Ảnh: VM
Trong các hoạt động nuôi, chỉ nên sử dụng con giống sạch mầm bệnh. Mật độ thả giống phải phù hợp với năng lượng đầu vào và quy mô hệ thống để tránh gây căng thẳng cho tôm trong ao.
Nên hạn chế tối đa việc thay nước, đồng thời chỉ sử dụng nước đã qua xử lý. Xử lý nước bao gồm các phương pháp vật lý, hóa học và sinh học để loại bỏ các hạt virus và vật mang virus. Tất cả các cửa lấy nước phải được che bằng lưới 250 μm để lọc các loài giáp xác và ấu trùng xâm nhập vào ao nuôi.
Để xác nhận rằng tất cả các chất mang mầm bệnh đã bị loại bỏ, sử dụng Chlorine hoặc các hóa chất được phê duyệt khác được áp dụng trong các hồ chứa và ao nuôi. Nước sau đó được ủ trong tối thiểu 72 giờ để phân hủy các phần tử virus.
Mật độ thả giống và sử dụng năng lượng trong ao nuôi cần được tính toán dựa trên cấu trúc và hệ thống ao nuôi được áp dụng. Các chiến lược sục khí cần được thực hiện để giữ cho lượng ôxy hòa tan trong nước ao ở mức đồng đều bằng cách vận hành suốt ngày đêm đồng thời xem xét chi phí năng lượng.
Để tăng khả năng vận chuyển của ao nuôi, bùn tích tụ dưới đáy ao cần được loại bỏ bằng xi phông qua ống thoát nước trung tâm. Xi phông thường bắt đầu từ ngày thứ 40 đến ngày thứ 50, tùy thuộc vào việc quản lý ao. Các ao nuôi cấy có thể được hút hai đến ba lần mỗi tuần, mỗi lần tối đa hai giờ.
Một yếu tố quan trọng khác là kiểm soát hiệu quả việc sử dụng thiết bị và giao thông của con người, vì những tác nhân này thường có thể mang virus. Kiểm soát của con người áp dụng cho người vận hành ao cũng như kỹ thuật viên phòng thí nghiệm. Mỗi ao cần có thiết bị lấy mẫu nước riêng. Nếu phải dùng chung thiết bị như lưới quăng, phải cẩn thận khử trùng lưới trước và sau khi sử dụng.
Chỉ những người vận hành ao được chỉ định mới được xử lý các mẫu và thiết bị. Nếu cần, mẫu có thể được đưa đến phòng thí nghiệm để phân tích thêm.
Trong trường hợp bùng phát virus, quy trình kiểm dịch cần được tuân thủ nghiêm ngặt để ngăn chặn virus lây lan sang các ao hoặc trang trại khác. Ngay khi nghi ngờ ao bị virus tấn công phải tiến hành cách ly ao, có biển báo và các biện pháp ngăn chặn người vào khu vực ao. Đảm bảo rằng tất cả các cửa vào và ra của ao đều được đóng chặt.
Nếu phát hiện dương tính với virus phải tiến hành khử trùng ao nuôi với liều lượng cao hơn bình thường càng sớm càng tốt. Tất cả tôm chết phải được thu gom và đốt hoặc chôn lấp. Ngừng vận hành tất cả các thiết bị sục khí, nhưng không được lấy ra khỏi ao. Xử lý hóa chất và để nước ao đọng ít nhất bảy ngày trước khi xả.
Hoàng Ngân