(TSVN) – Sau 2 tháng sụt giảm, đến tháng 8, xuất khẩu thủy sản nói chung và con tôm nói riêng đã có sự tăng trưởng trở lại. Tuy nhiên, theo nhận định của các doanh nghiệp, điều này cũng chỉ mang tính chất hiện tượng nhiều hơn là dấu hiệu lạc quan thật sự.
Do đang là cuối vụ, lượng tôm thu hoạch không còn nhiều, trong khi các nhà máy đều bước vào cao điểm chế biến để hoàn tất các đơn hàng đã ký kết nên giá TTCT nguyên liệu hầu hết các kích cỡ đều tăng, đặc biệt là TTCT cỡ lớn (20 – 30 con/kg).
Theo cập nhật của phóng viên Tạp chí Thủy sản Việt Nam, từ đầu tuần thứ 2 của tháng 9 đến nay, giá TTCT cỡ lớn tại khu vực ĐBSCL mỗi tuần đều tăng bình quân 2.000 – 5.000 đồng/kg. Hiện tại, giá TTCT loại 20 con/kg ở mức 265.000 – 270.000 đồng/kg, loại 30 con/kg giá 165.000 – 175.000 đồng/kg, loại 50 con/kg giá 134.000 – 140.000 đồng/kg… Theo dự báo của của các doanh nghiệp, trong các tháng còn lại của năm 2022, giá TTCT nhiều khả năng sẽ tăng thêm đôi chút, dù các hợp đồng xuất khẩu mới, gần như rất ít được doanh nghiệp ký kết thêm. Ông Hồ Quốc Lực, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Thực phẩm Sao Ta cho biết: “Tôm của Ecuador, Ấn Độ hiện rất rẻ nhưng trình độ chế biến trung bình, còn tôm Việt Nam dù giá cao nhưng nhờ các doanh nghiệp chủ yếu tập trung sản phẩm chế biến sâu, nên sản lượng và giá tiêu thụ vẫn tốt”.
Lũy kế 8 tháng đầu năm nay, xuất khẩu tôm đạt hơn 3 tỷ USD, tăng 24%. Ảnh: Phan Thanh
Năm nay, thời tiết thất thường làm cho sản lượng tôm vào cuối vụ rất ít so cùng kỳ mọi năm (chỉ bằng 60 – 70%). Tuy nhiên, do sức mua thị trường rất yếu, nên dù nguồn tôm nguyên liệu về các nhà máy trong tháng 9 giảm 30 – 40% so tháng 8 nhưng hầu như chưa có thông tin nhà máy nào than thiếu nguyên liệu. Hiện những nhà máy nào còn phải trả nợ hợp đồng buộc phải đẩy giá lên cao mới mua được tôm nguyên liệu, nhưng làm như vậy sẽ không có lời, thậm chí sẽ bị lỗ. Nhận định về thị trường xuất khẩu từ nay đến cuối năm, ông Võ Văn Phục, Tổng Giám đốc Công ty CP Thủy sản sạch Việt Nam, cho biết: “Từ nay đến cuối năm sẽ rất căng, doanh nghiệp có rất ít hợp đồng. Thậm chí một số hợp đồng đã ký trước đó, khách hàng chưa cho giao hàng vì sức tiêu thụ đang rất chậm, họ còn sản phẩm tồn kho. Một số nước có ảnh hưởng lớn về tỷ giá còn đề nghị hủy hợp đồng, kể cả khách hàng một số nước uy tín từ trước đến nay cũng có trường hợp này”.
00
Cũng do các doanh nghiệp tập trung nhiều vào sản phẩm chế biến sâu nên công suất chế biến chậm lại, nhu cầu nguyên liệu không ồ ạt. Do đó, dù đã cuối vụ, lượng tôm nguyên liệu không còn nhiều, cũng không xảy ra tình trạng khan hiếm nguyên liệu như những năm trước. Hơn nữa, theo các doanh nghiệp, nếu làm nhiều trong thời điểm hiện nay cũng không biết bán cho ai, vì sức tiêu thụ đang chậm lại. Riêng xuất khẩu tôm tháng 8 tăng trưởng trở lại so với 2 tháng trước, theo ông Lực chưa thể xem là một dự báo lạc quan mà chỉ là một hiện tượng trong tiến trình, mà nguyên nhân có thể là do có nhiều hợp đồng giao tập trung trong tháng 8 mà thôi. Những tháng còn lại của năm, khả năng xuất khẩu tôm cũng không thể tăng trưởng như những tháng đầu năm mà chỉ giữ như nhịp độ cùng kỳ. Ông Lực lý giải: “Do tình hình lạm phát tại các thị trường tiêu thụ lớn có xu hướng ngày càng xấu, khiến người tiêu dùng bị giảm thu nhập, buộc họ phải dè xẻn hơn trong chi tiêu. Còn trong nước, tình hình nuôi tôm vụ nghịch này không bằng năm ngoái, tôm nguyên liệu không nhiều, nên theo tôi, xuất khẩu cả năm khả năng chỉ tăng trưởng xoay quanh 10% so với năm rồi”.
Nhận định về triển vọng ngành tôm trong năm tới, theo ông Lực là rất khó, bởi nó phụ thuộc rất lớn vào nhiều yếu tố, như: xung đột Nga – Ukraine kết thúc sớm hay muộn, lạm phát có được đẩy lùi, kinh tế thế giới có được ổn định… Đó là bên ngoài, còn trong nước, nhất là tình hình vụ nuôi mới năm 2023 phải đợi kết quả dự báo thời tiết tốt xấu thế nào trong những tháng cuối năm nay và đầu năm sau mới có thể biết được. Ông Lực chia sẻ: “Ví dụ như nếu thời tiết cuối năm không lạnh, độ mặn về sớm hơn… sẽ có thả nuôi sớm vì với giá tôm rất tốt như hiện nay sẽ là động lực cho người nuôi tiếp tục thả nuôi vụ mới sớm hơn một khi thời tiết, môi trường thuận lợi”.
Còn theo ông Phục, tuy còn nhiều khó khăn lẫn áp lực từ bên ngoài lẫn bên trong, nhưng doanh nghiệp tôm Việt Nam cũng có lợi thế khác là sản xuất nhiều mặt hàng giá trị gia tăng, bán được mức giá cao mà một số nước chưa làm được, nên có điều kiện chia sẻ giá mua với người nuôi. Tuy nhiên, hiện những mặt hàng nào, các nước làm được thì chúng ta rất khó cạnh tranh, do chi phí, giá thành sản xuất của Việt Nam còn cao. Vì vậy, để giữ vững ưu thế cạnh tranh cho ngành tôm, Chính phủ, Bộ, ngành cần có các cơ chế chính sách hỗ trợ người nuôi, doanh nghiệp áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến, để nâng công suất, giảm giá thành mới giải quyết được vấn đề này trong tương lai.
An Xuyên