Ngành nuôi tôm hình thành ở Bangladesh từ những năm 1960, giai đoạn khởi đầu đã có nhiều tranh luận. Tuy nhiên, các nhà chức trách Bangladesh và nhà tài trợ đã thiết lập các chính sách, thể chế tuân theo nguyên tắc nuôi tôm thân thiện môi trường. Những cải thiện về môi trường và xã hội kết hợp với đầu tư nước ngoài đã tạo việc làm, giúp nghề nuôi tôm được thừa nhận rộng rãi ở Bangladesh.
Bangladesh là một trong 10 nước sản xuất tôm hàng đầu thế giới. Xuất khẩu tôm là nguồn thu ngoại tệ lớn thứ hai sau hàng may sẵn, thu về khoảng 500 triệu USD/năm, cung cấp 2 triệu việc làm, hỗ trợ hơn 5 triệu người lao động nước này.
Ngư dân Bangladesh đánh bắt tôm phục vụ tiêu dùng nội địa hàng trăm năm qua. Tuy nhiên, việc bắt đầu nuôi tôm xuất khẩu như hiện nay được hình thành cuối những năm 1960, khi một số nhà máy chế biến thủy sản đông lạnh được xây dựng ở Chittagong và Khulna. Từ những năm 1980, có sự gia tăng đáng kể trong nuôi tôm, nhất là vùng ven biển. Tổng cục Thủy sản Bangladesh ước tính, nước này có khoảng 250.000 ha diện tích trang trại nuôi tôm ven biển, sản xuất trung bình 100.000 tấn tôm/năm.
Tính bền vững
Nhiều cuộc thảo luận liên quan nuôi tôm thương phẩm đã xảy ra từ lúc bắt đầu. Trong khi có nhiều quan điểm khác nhau giữa các tổ chức phi chính phủ và cộng đồng trí thức từ chống đối hoàn toàn đến khuyến khích mạnh mẽ nghề nuôi tôm thương phẩm, thì có một điều mà tất cả các nhóm đều kêu gọi, đó là tính bền vững.
Bangladesh phát triển mạnh nuôi tôm hướng tới bền vững. Ba giai đoạn chính của ngành nuôi tôm thương phẩm ở Bangladesh được ghi nhận là kỷ nguyên đối kháng, mâu thuẫn và bình thường hóa.
Khởi đầu nhiều tranh cãi
Những năm đầu, nuôi tôm ở Bangladesh phần lớn được duy trì thông qua một hệ thống phức tạp của bảo trợ chính trị liên quan tới các quan chức tham nhũng, chính trị gia địa phương và nhóm người buôn ma túy. Họ bị thu hút bởi lợi nhuận ngắn hạn bằng cách làm giàu từ dân địa phương. Trong nhiều trường hợp khác, các nhà sản xuất tôm mạnh tay đuổi nông dân trồng lúa quy mô nhỏ, chiếm đoạt đất đai thuộc sở hữu nhà nước và chuyển đổi một phần rừng đước Sundarban thành ao nuôi tôm.
Với sự giúp đỡ của các tổ chức phi chính phủ, cộng đồng bị ảnh hưởng đã dấy lên chống lại nghề nuôi tôm, kéo dài mãi đến cuối những năm 1990. Cuộc đối kháng được kết hợp các phong trào công bằng xã hội khác, vượt khỏi biên giới quốc gia. Một số tổ chức tiên phong trong phong trào đối kháng toàn cầu này gồm: Tổ chức Greenpeace, Quỹ Công lý Môi trường (EJF) và Nijera Kori tiếp tục phản đối nuôi tôm, bất chấp những chuyển biến tích cực của ngành này hơn thập kỷ qua.
Thu hoạch tôm tại một trang trại nhỏ ở Bangladesh – Nguồn: Jifsan.umd.edu
Các vấn đề môi trường, xã hội
Các nhà hoạt động môi trường trong nước và quốc tế đã thành công trong việc thu hút sự chú ý của quốc tế đến các vấn đề thiệt hại môi trường và xã hội do ngành tôm gây ra. Đáp lại, chính quyền Bangladesh, các cơ quan tài trợ đã hưởng ứng theo; từ đó thiết lập một loạt chương trình nghị sự về môi trường cũng như thành lập các tổ chức kiểm tra, quản lý chất lượng để chứng minh sự tuân thủ các nguyên tắc nuôi tôm thân thiện môi trường.
Do một loạt thay đổi về thể chế, kinh phí và kỹ thuật hỗ trợ các doanh nghiệp mới và nông dân nuôi tôm, người ta bắt đầu nhìn nhận ngành nuôi tôm theo cách mâu thuẫn hơn. Khi ngoại tệ bắt đầu chảy vào trong nước, nhiều nông dân trồng lúa bắt đầu chuyển sang nuôi tôm trên cơ sở thử nghiệm. Nhìn chung, sự mâu thuẫn trong nước tiếp tục tồn tại đến năm 2003.
Sau đó, một số tổ chức phi chính phủ bắt đầu thay đổi hoạt động, chuyển từ đối kháng sang hợp tác. Nhiều nông dân địa phương cũng thay đổi hình thức canh tác, từ trồng lúa sang nuôi tôm. Ở kỷ nguyên này, mặc dù một số tổ chức phi chính phủ vẫn phản đối, nhưng ngành nuôi tôm vẫn được người dân địa phương thừa nhận rộng rãi hơn, bởi nhiều lý do, trong đó có nguồn thu ngoại tệ tăng lên đáng kể, tiếp thêm sinh lực cho kinh tế địa phương.
Vấn đề quan tâm chính lúc này đã thay đổi, không theo hướng phản đối nuôi tôm, đòi khôi phục trồng lúa, mà tập trung hơn đến việc đảm bảo chất lượng, khả năng truy xuất nguồn gốc đáp ứng yêu cầu của những người mua gom tôm. Với việc hướng dẫn quy trình HACCP (hệ thống phân tích, xác định và tổ chức kiểm soát các mối nguy trọng yếu trong sản xuất và chế biến thực phẩm), các phương pháp thực hành nuôi tôm đã được thay đổi nhằm đáp ứng các tiêu chí về môi trường và xã hội khác.
Các hình thức vi phạm môi trường và xã hội tồi tệ nhất – các vấn đề gây tranh cãi nhất đối với sự phản đối của các tổ chức phi chính phủ đã trở thành quá khứ. Tuy nhiên vẫn còn các trường hợp tham nhũng và thực hành nuôi tôm không bền vững xảy ra bên ngoài Bangladesh. Nhưng hầu hết mọi người nuôi tôm (đa phần là nông dân trồng lúa trước đây) đều nghĩ, nuôi tôm là nghề sinh lãi và đem lại lợi ích cho cộng đồng địa phương.
Những chuyện hoang đường
Trong khi một số mối quan tâm về môi trường và xã hội liên quan nuôi tôm vẫn còn tồn tại thì nhiều vấn đề gây tranh cãi khác đã dần trở thành chuyện hoang đường.
Nuôi tôm tạo ra ít việc làm hơn so với canh tác lúa
Thực tế cho thấy, nuôi tôm đã tạo ra nhiều cơ hội hơn trồng lúa. Đất đang dùng cho nuôi tôm là đất trước đây cằn cỗi không canh tác hoặc những ruộng lúa canh tác theo thời vụ cho sản lượng, lợi ích kinh tế và xã hội rất thấp. Nuôi tôm nước ngọt thường xen kẽ trồng lúa ở các vùng nước ngọt, đã tạo ra chuỗi việc làm liên quan mà trồng lúa không thể có.
Nuôi tôm tăng độ mặn so với trồng lúa
Nước ở bờ biển Nam Bangladesh là nước lợ (một hỗn hợp của nước mặn từ biển và nước ngọt từ sông) chứ không phải nước mặn. Do đập nước Farakka và các đập khác chắn dòng nước ngọt từ dãy Himalayas, nên sự hình thành của nước lợ bị cản trở. Điều này tác động lớn đến hệ sinh thái ven biển, kể cả Sunderban. Chủ tịch Hiệp hội nuôi tôm Bangladesh cho biết: “Nuôi tôm có thể góp phần thêm độ mặn, nhưng đây không phải lý do chính như nhiều người mô tả”.
Nuôi tôm là thảm họa với phụ nữ
Sự phát triển nghề nuôi tôm đã mang đến nhiều cơ hội cho phụ nữ hơn trước. Một so sánh về vị thế hiện nay của phụ nữ trong xã hội với tình trạng của họ trước khi nghề nuôi tôm thương phẩm ra đời cho thấy, nghề nuôi tôm đã nâng cao địa vị, mở rộng nhiều cơ hội và phá vỡ sự phân chia giới tính lao động cứng nhắc truyền thống đối với phụ nữ.
Ngành công nghiệp mới
Nuôi tôm cũng biến một số nguồn tài nguyên thiên nhiên trước đây không hữu ích trở nên hữu ích, thông dụng hóa. Ví dụ, trước đây ốc sên dùng làm thức ăn cho vịt nuôi ở Bangladesh thì nay dùng làm thức ăn cho tôm, nhất là cho tôm nước ngọt tại vùng Khulna. Việc thu mua ốc sên tạo thêm nhiều việc làm, như những người tham gia vận chuyển ốc sên bằng xe tải, xe bò hay xe kéo nhỏ đến ao nuôi tôm.
Phụ nữ ở các vùng nuôi tôm đập ốc sên và bán vỏ ra chợ làm thức ăn cho gia cầm. Phụ nữ có thể kiếm 50 – 80 takas/ngày (khoảng 0,6 – 1 USD/ngày) từ việc này. Một người mẹ có 4 con nhỏ cho biết: “Tôi chuyên đập vỏ ốc trong 12 năm qua, thu nhập khoảng 75 takas/ngày”.
“Vàng trắng”
Thị trường xuất khẩu chính của tôm và cá Bangladesh (2006 – 2007) – Nguồn: Shrimpfoundation.org
Một doanh nhân kể: “Tôi đã “từ số không đến anh hùng”, nhờ tôm. Sinh ra trong gia đình nghèo, không địa vị, không “tiếng nói” trong xã hội, tôi đã liều lĩnh nuôi tôm, làm mọi thứ bằng chính bản thân, và bây giờ có thể tự hào về tôi. Con tôm đã làm thay đổi đời tôi. Hiện, tôi có một khu nuôi tôm hợp tác chung với hai doanh nhân trẻ khác, với diện tích khoảng 950 bighas. Chúng tôi đã kiếm được 400.000 takas (4.895 USD) trong tháng 7/2012 và mong đợi nhiều hơn vào cuối năm. Chúng tôi cũng sản xuất gạo ở các khu nuôi này”.
Khi nền kinh tế địa phương tại Bangladesh hòa nhập chuỗi hàng hóa tôm toàn cầu, dòng tiền đổ vào địa phương đã làm thay đổi cảnh quan văn hóa – xã hội nông thôn Bangladesh rất nhiều. Tôm được coi là “vàng trắng” đối với các cộng đồng địa phương Bangladesh.
>> Trong năm tài chính 2011 – 2012, kim ngạch xuất khẩu tôm của Bangladesh đạt 598 triệu USD, thấp hơn so 611,36 triệu USD năm 2010 – 2011. |
PGS-TS Y khoa Saidul Islam, Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore
(Sao Mai lược dịch từ Advocate tháng 11-12/2012)