(TSVN) – Tôm là ngành hàng mang lại giá trị kim ngạch xuất khẩu “tỷ đô” của Việt Nam, do vậy, để có được sản phẩm tôm xuất khẩu chất lượng, yếu tố con giống được coi trọng hàng đầu. Cùng với sự phát triển ngày một lớn mạnh của ngành tôm, thì ngành sản xuất, kinh doanh tôm giống cũng không ngừng mở rộng và có những bước tiến mới về công nghệ. Đây là mảnh đất màu mỡ thu hút rất nhiều tập đoàn, doanh nghiệp trong nước và quốc tế tham gia khai thác, phát triển.
Công nghệ sản xuất tôm giống đầu tiên ra đời tại Nhật Bản, khi GS.TS Fujinaga thành công trong việc nuôi vỗ và cho sinh sản tôm he Nhật Bản ( P. japonicus), năm 1934. Fujinaga được coi là ông tổ nghề sản xuất tôm giống thế giới. Năm 1940, người Nhật đề ra hai phương pháp nuôi tảo silic. GS.TS Fujinaga cho rằng, tảo và là thức ăn khởi đầu tiên quyết cho ấu trùng tôm từ giai đoạn Zoea đến Postlarvae. Năm 1943, Pannouse phát hiện ra cách nuôi vỗ tôm bố mẹ thành thục bằng phương pháp cắt mắt, được sử dụng đến nay.
Từ thành công của Nhật Bản, công nghệ sản xuất tôm giống được áp dụng ở nhiều nước khác. Tại Đài Loan, TS I.Chiu Liao chọn tôm sú ( Penaeus monodon) để tiến hành kỹ thuật cho tôm trưởng thành sinh sản, nuôi tôm post và nuôi tôm thương phẩm trong ao có sục khí với thức ăn chế biến. Từ đó thúc đẩy nghề nuôi tôm, đưa Đài Loan trở thành trung tâm của công nghệ nuôi tôm ở châu Á.
Tôm sú phân bố khắp Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương, đẻ nhiều trứng, phát triển nhanh nhất, thích nghi tốt thức ăn nhân tạo và nuôi thâm canh. Tôm sú dễ bắt được tôm cái từ biển, nên khi công nghệ Đài Loan được chuyển giao khắp châu Á, thì tôm sú thành loài tôm nuôi chiếm ưu thế. Tuy nhiên, theo thời gian, tôm cái hoang dã dần bị nhiễm nhiều bệnh; trong đó bệnh đốm trắng (WSSV) tàn phá ngành tôm nhiều nước, nhất là tại châu Á.
Năm 1990, loài TTCT cải tiến gen, sạch bệnh (SPF) được đưa vào châu Á. Năng suất nuôi tăng cao; người nuôi nhanh chóng chuyển đổi từ tôm sú nhiễm bệnh sang TTCT sạch bệnh, hưởng lợi từ nguồn tôm sạch bệnh này đến nay.
Tại Việt Nam, việc nghiên cứu sinh sản nhân tạo tôm biển được tiến hành từ đầu những năm 1970, với tôm thẻ bạc ( P. merguiensis), tôm he Nhật Bản ( P. japonicus) và tôm hùm ma ( P. penicilatus). Năm 1985, sinh sản nhân tạo thành công tôm sú ở Nha Trang (Khánh Hòa). TTCT du nhập vào Việt Nam kéo theo sự phát triển ngành sản xuất giống. Nhiều cơ sở, doanh nghiệp sản xuất giống tôm sú chuyển một phần sang sản xuất giống TTCT gặp khó khăn kỹ thuật, đã nhanh chóng đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, dần làm chủ công nghệ sản xuất giống TTCT. Cả nước hiện có hơn 500 đơn vị, doanh nghiệp sản xuất, ương nuôi giống TTCT. Cùng với đó, công nghệ sản xuất tôm giống tùy thuộc quy mô, sự đầu tư của các cơ sở. Xu hướng chung hiện nay ở các nước có nghề nuôi tôm phát triển là chủ động phát triển đàn tôm bố mẹ kháng bệnh, sạch bệnh (thông qua việc gia hóa), tạo ra những đàn tôm giống (Poslarvae) chất lượng cao.
Theo Tổng cục Thủy sản, với diện tích nuôi tôm nước lợ (tôm sú và TTCT) của nước ta năm 2020 là 738.000 ha, nhu cầu tôm giống khoảng 130 tỷ con; trong đó, gồm 100 tỷ giống TTTC và 30 tỷ giống tôm sú. Số lượng tôm bố mẹ cần để sản xuất tôm giống là 250.000 con. Trên cơ sở nhu cầu này, trong năm, cả nước với 2.224 cơ sở sản xuất tôm giống đã sản xuất đáp ứng đủ số lượng con giống trên. Trong đó, khu vực sản xuất trọng điểm tôm giống tại Nam Trung bộ gồm: tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận. Hàng năm, các cơ sở tại khu vực này cung cấp khoảng 56% số lượng giống tôm nước lợ cho nhu cầu thả nuôi của cả nước. Số còn lại được sản xuất tại các tỉnh ĐBSCL như: Bạc Liêu, Cà Mau và các tỉnh phía Bắc, gồm: Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Ninh.
Ninh Thuận được coi là thủ phủ sản xuất tôm giống của cả nước, địa phương đang xây dựng Đề án “Phát triển Ninh Thuận thành trung tâm sản xuất tôm giống chất lượng cao của cả nước”.Đề án hướng tới mục tiêu đầu tư đồng bộ và hoàn thiện kết cấu hạ tầng các khu sản xuất giống thủy sản tập trung; đẩy mạnh ứng dụng khoa học – công nghệ, đặc biệt là công nghệ vi sinh, công nghệ di truyền chọn giống, công nghệ xử lý nước để nâng cao chất lượng tôm giống, đưa tôm giống Ninh Thuận trở thành ngành sản xuất hàng hóa có hàm lượng khoa học công nghệ cao.
Ông Lê Huyền, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Ninh Thuận cho biết, Ninh Thuận có lợi thế về sản xuất, kinh doanh giống thủy sản chất lượng cao. Thực tế thời gian qua, sản lượng tôm giống của Ninh Thuận luôn đạt cao, đáp ứng được 35% sản lượng tôm giống của cả nước và là một trong những trung tâm sản xuất tôm giống lớn. Ngày càng có nhiều doanh nghiệp tham gia đầu tư quy mô lớn nuôi tôm công nghệ cao, khép kín quy trình từ sản xuất con giống, nuôi thương phẩm, đến chế biến xuất khẩu, góp phần làm cho ngành tôm Việt Nam phát triển ngày càng lớn mạnh. Từ việc hoạch định chiến lược phát triển bền vững, tỉnh Ninh Thuận đã thu hút được các doanh nghiệp, tập đoàn lớn mà điển hình là Công ty TNHH Uni-President Việt Nam, một thương hiệu lớn mạnh của ngành thủy sản, có bề dày kinh nghiệm trong sản xuất thức ăn, vi sinh, con giống. Đơn vị đã hoàn thiện và ứng dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất tôm giống như máy cấy tinh cho tôm mẹ, kỹ thuật cho tôm sinh sản và ương nuôi ấu trùng đã được phổ biến rộng rãi, nâng cao năng lực sản xuất. Hệ thống bể ương nuôi ấu trùng không ngừng được điều chỉnh, cải tiến cho phù hợp và hoàn thiện hơn. Hệ thống lọc nước tuần hoàn, xử lý tia UV, ozon, lọc áp lực trước khi vào khu sản xuất, đây là yếu tố cần thiết góp phần tạo nguồn tôm giống sạch bệnh, tăng trưởng nhanh.
Năm 2021, cả nước có kế hoạch sản xuất tôm nước lợ trên 740.000 ha, tập trung chủ yếu ở vùng ĐBSCL. Nhu cầu tôm giống cho nuôi trồng khoảng 130 tỷ con, nhu cầu tôm bố mẹ khoảng 250.000 con, sản lượng thu hoạch phấn đấu đạt trên 900.000 tấn. Tuy nhiên, đáng lo ngại nhất là vào mùa cao điểm thả giống tại các tỉnh nuôi tôm thương phẩm, đặc biệt ở vùng ĐBSCL, vẫn còn số lượng lớn tôm giống được vận chuyển từ các tỉnh Nam Trung bộ không rõ nguồn gốc, chưa qua kiểm dịch. Một số cơ sở chưa được kiểm tra cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện sản xuất, ương dưỡng giống thủy sản theo quy định của Luật Thủy sản… Đó là một trong những nguyên nhân khiến con giống kém chất lượng xâm nhập vùng ĐBSCL, gây guy cơ lây lan dịch bệnh. Chính vì vậy, việc tăng cường quản lý sản xuất, kinh doanh kiểm tra tôm giống là hết sức quan trọng.
Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến nhấn mạnh, Tổng cục Thủy sản cần phối hợp với thanh tra của Bộ và các ngành có liên quan tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra con giống đầu vào, cũng như rà soát việc cấp giấy chứng nhận vùng nuôi, cơ sở nuôi theo đúng quy định. Đồng thời, công tác kiểm soát dịch bệnh trên tôm giống xuất ra ngoài tỉnh phải chặt chẽ, đúng quy trình. Trong đó phải thực hiện một cách kiên quyết, xử lý nghiêm những sai phạm, thì ngành NTTS tôm nước lợ mới có nguồn giống, cơ sở sản xuất giống tốt, đạt chất lượng theo yêu cầu, phát huy hiệu quả nuôi trồng ở vùng ĐBSCL nói riêng và cả nước nói chung. Kiên quyết không để con giống không đủ tiêu chuẩn đưa vào sản xuất, nuôi trồng; không để người dân trở thành trắng tay sau một vụ nuôi vì con giống kém chất lượng.
Ngọc Ngọc