Phát triển ngành sản xuất tôm nước lợ là giải pháp tối ưu để thích ứng với biến đổi khí hậu ở Việt Nam trong thời gian tới (Phần II)

Chưa có đánh giá về bài viết

Trên cả nước có trên 1.300 trại tôm giống

Chất lượng con giống cần được kiểm soát chặt chẽ

Chất lượng con giống cần được kiểm soát chặt chẽ

>> Phát triển ngành sản xuất tôm nước lợ (Phần I) 

2. CHÍNH SÁCH VÀ PHÂN CÔNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG SẢN XUẤT GIÔNG VÀ NUÔI TÔM THƯƠNG PHẨM

2.1. Xây dựng và ban hành Quy chuẩn quốc gia về An toàn sinh học trong sản xuất giống tôm và giao trách nhiệm kiểm soát cho Tổng cục Thủy sản/Chi cục Thủy sản các tỉnh, thành phố

2.1.1. Về sản xuất tôm giống

Hiện nay cả nước có trên 1.300 trại tôm giống, nhưng riêng 2 hệ thống sản xuất, do nước ngoài quản lý là C.P và Việt – Úc (có điều kiện sản xuất cơ bản đáp ứng yêu cầu an toàn sinh học) đã cung cấp tới 40% nhu cầu tôm giống cho người nuôi. Các trại giống tôm do người Việt Nam làm chủ, hầu hết có công nghệ lạc hậu; bố trí các khu chức năng và quản lý sản xuất không đảm bảo an toàn sinh học, do vậy chất lượng tôm giống không ổn định, tỷ lệ nhiễm bệnh cao, nên ít được người nuôi tôm thương phẩm lựa chọn.

2.1.2. Về quản lý Nhà nước trong sản xuất  tôm giống

a. Hiện nay, có 2 quy chuẩn quốc gia cho trại giống là: i) QCVN 02-15:2009/BNNPTNT. Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia: Cơ sở sản xuất giống thủy sản – điều kiện an toàn thực phẩm, an toàn sinh học và môi trường, do Chi cục Quản lý chất lượng nông, lâm và thủy sản và Chi cục Thủy sản thực hiện kiểm soát và  ii) QCVN 15 – 19 : 2015/BNNPTNT. Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia: Cơ sở sản xuất giống tôm nước lợ – Điều kiện bảo đảm vệ sinh thú y, bảo vệ môi trường; do Cục Thú y/Chi cục Thú y kiểm soát. So sánh nội dung của hai quy chuẩn này cho thấy, chúng hoàn toàn giống nhau về nội dung, một vài chỗ chỉ khác nhau về cách hành văn.

b. Việc kiểm tra chất lượng con giống cũng được chia cho 2 cơ quan kiểm soát: i) Kiểm tra kích thước, màu sắc, phản xạ của tôm giống do Chi cục Thủy sản các tỉnh thực hiện; ii) Kiểm tra tác nhân gây bệnh (virus, vi khuẩn, nấm, ký sinh trùng) trong tôm giống do Chi cục Thú y thực hiện.

Hình thức quản lý như trên đã gây rất nhiều khó khăn, tốn kém cho các trại sản xuất tôm  giống và hiệu quả kiểm soát không cao.

2.1.3.  Để khắc phục tình trạng trên, Hội Nghề cá Việt Nam kiến nghị:

a. Xây dựng  Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia: “Trại sản xuất tôm giống – Điều kiện an toàn sinh học”, để thay thế cho 2 Quy chuẩn nêu tại mục 2.1.2.a. Sau đó thực hiện kiểm soát chặt chẽ tại tất cả các trại tôm giống và chỉ những trại đáp ứng quy chuẩn này mới được phép sản xuất và bán tôm giống ra thị trường.

b. Giao toàn bộ nhiệm vụ quản lý trại giốngchất lượng tôm giống (bao gồm kích cỡ, màu sắc, phản xạ, tác nhân gây bệnh…) cho Tổng cục Thủy sản ở Trung ương và Chi cục Thủy sản ở các tỉnh/thành phố thực hiện.

2.2. Giao nhiệm vụ quản lý sản xuất, quản lý kỹ thuật và kiểm soát bệnh, dịch trong quá trình nuôi tôm thương phẩm cho một cơ quan quản lý, đó là Tổng cục Thủy sản/Chi cục Thủy sản các tỉnh, thành phố

a. Hiện nay: i) Tổng cục Thủy sản/Chi cục Thủy sản các tỉnh, thành phố chịu trách nhiệm về quy hoạch, tổ chức sản xuất, hướng dẫn kỹ thuật nuôi tôm thương phẩm bao gồm điều chỉnh các chỉ tiêu môi trường, và các bệnh do tác nhân sinh học nhưng là những bệnh không trong danh mục phải khai báo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. ii) Cục Thú y/Chi cục Thú y chịu trách nhiệm kiểm soát các loại bệnh do tác nhân sinh học trong danh mục phải khai báo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và thực hiện dập dịch.

Việc làm trên gây chồng chéo, tốn kém nhân lực trong quản lý nhà nước và gây rất nhiều khó khăn cho cơ sở nuôi, nhưng  hiệu quả kiểm soát thì rất thấp.

b. Hội Nghề cá Việt Nam kiến nghị: Giao toàn bộ nhiệm vụ quản lý kỹ thuật nuôi tôm bao gồm: kiểm dịch, dập dịch cho Tổng cục Thủy sản/Chi cục Thủy sản các tỉnh, thành phố thực hiện.

2.3. Không tách sản phẩm xử lý cải tạo môi trường thành 2 nhóm để giao cho 2 cơ quan quản lý khác nhau, mà giao về cho Tổng cục Thủy sản quản lý thống nhất như trước đây

a. Sản phẩm xử lý cải tạo môi trường nước nuôi thủy sản nói chung và nuôi tôm nói riêng từ trước đến năm 2015 vẫn do Tổng cục Thủy sản quản lý. Nhưng từ sau khi có Luật Thú y ra đời, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành Thông tư số 23/2016-BNN tách sản phẩm xử lý cải tạo môi trường nuôi trồng thủy sản thành 2 nhóm: i) Nhóm 1 có tác dụng diệt khuẩn trong nước nuôi thủy sản, do Cục Thú y quản lý như thuốc thú y và ii) Nhóm 2 có tác dụng điều chỉnh các chỉ tiêu môi trường nước nuôi thủy sản như: Ôxy hòa tan, độ mặn, độ kiềm, độ pH, NH3… được giao cho Tổng cục Thủy sản quản lý. Trình tự thủ tục quản lý theo Thông tư 51/2013-BNN về  thức ăn chăn nuôi.

Việc tách chia và phân công quản lý như trên không phù hợp với phân loại sản phẩm xử lý cải tạo môi trường nuôi thủy sản của thế giới và không phù hợp với phân công trước đây của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, gây rất nhiều khó khăn, phiền hà và tốn kém cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thuốc trị bệnh; sản phẩm xử lý cải tạo môi trường nuôi thủy sản và hiệu quả quản lý rất thấp.

b. Hội Nghề cá Việt Nam kiến nghị: Vẫn giữ nguyên sản phẩm xử lý cải tạo môi trường nuôi thủy sản là một nhóm và cơ quan quản lý sản phẩm này là Tổng cục Thủy sản/Chi cục Thủy sản các tỉnh, thành phố.

2.4. Tổng kết thực tế, xác định mô hình nuôi tôm hiệu quả để phổ biến cho bà con ngư dân vùng nuôi tôm quy mô nhỏ áp dụng.

2.4.1. Hiện nay, trên phạm vi cả nước có tỷ lệ diện tích khá lớn (khoảng 70%) là vùng nuôi tôm, gồm nhiều hộ cá thể quy mô nhỏ (mỗi hộ 1 ao hoặc vài ao, có trường hợp 3 – 5 hộ chung 1 ao), phát triển nuôi không theo quy hoạch hoặc quy hoạch đã bị phá vỡ (không tách biệt kênh cấp, kênh thoát, không có ao lắng, ao xử lý nước thải và nơi chứa bùn). Người nuôi lấy nước vào và thải nước từ ao nuôi ra cùng một kênh; bùn thải không được thu gom mà thải thẳng ra môi trường. Tình trạng trên dẫn đến bệnh dịch phát sinh và lây lan rất nhanh, người nuôi thua lỗ kéo dài, nợ ngân hàng không trả được, nhiều nơi hộ nuôi treo ao.

2.4.2. Để khắc phục tình trạng trên, Hội Nghề cá Việt Nam kiến nghị: i) Những nơi có điều kiện thu hồi đất thì nên thu hồi, thực hiện quy hoạch và xây dựng lại kênh cấp, kênh thoát, áo lắng, ao xử lý, nơi chứa bùn đạt yêu cầu an toàn sinh học; ii) Những nơi không thể thu hồi đất (vì đất đã thuộc quyền sử dụng của từng hộ dân) thì nên phổ biến các mô hình nuôi đã được thực hiện thành công trong sản xuất: (1) Nuôi tôm khép kín, không thay nước, sử dụng cá rô phi và chế phẩm sinh học để xử lý nước nuôi; (2) Nuôi tôm khép kín, mật độ thấp, cho ăn vừa đủ và quản lý chặt chẽ các chỉ tiêu môi trường; (3) Nuôi tôm kết hợp với các loài cá để giảm thiểu bệnh dịch.

>> Phát triển ngành sản xuất tôm nước lợ (Phần III)

TS. Nguyễn Việt Thắng - KS. Nguyễn Tử Cương

Hội Nghề cá Việt Nam

Bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Hãy là người đầu tiên bình luận trong bài
error: Content is protected !!