(TSVN) – Bệnh hoại tử thần kinh do virus trên cá biển (VNN – Viral Nervous Necrosis), là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, gây ra bởi virus Betanodavirus thuộc họ Nodaviridae. Bệnh đặc biệt nguy hiểm ở giai đoạn cá giống và cá con, có thể gây chết hàng loạt, đặc biệt ở nhiệt độ cao, và ảnh hưởng lớn đến ngành nuôi trồng thủy sản.
Bệnh do virus thuộc giống Betanodavirus, họ Nodaviridae gây ra. Virus Betanodavirus gây bệnh hoại tử thần kinh trên cá biển có hình cầu, đường kính 26 – 32 nm, không có màng bao, cấu trúc di truyền là ARN chuỗi đơn (+ARN). Khi xâm nhập vào cơ thể cá, virus sẽ ký sinh trong tế bào chất của tế bào thần kinh trong não và trong võng mạc mắt là bệnh cấp tính hoặc thứ cấp tính.
Đối tượng nhiễm bệnh: Hiện nay, trên thế giới đã có khoảng 30 loài cá biển thuộc 16 họ nhiễm VNN, đặc biệt thường gặp ở cá nuôi lồng như cá song điểm đai (Epinephelus malabaricus) – Thái Lan; cá song mỡ (E. tauvina) – Singapore; cá song vân mây (E. moara) và cá song chấm đỏ (E. akaara) – Nhật Bản; cá song bảy sọc (E. septemfasciatus) – Hàn Quốc, Nhật Bản; cá song lưng gù (Cromileptes altivelis) – Indonesia. Ở Việt Nam các loài cá song (Epinephelus spp) nuôi lồng trên vịnh Hạ Long thường gặp bệnh hoại tử thần kinh.
Bệnh thường xuất hiện ở giai đoạn ấu trùng cá giống từ 10 ngày tuổi cho đến giai đoạn cá giống dưới 20 ngày tuổi và trên cá biển nuôi lồng. Bệnh xuất hiện dấu hiệu không rõ ràng có thể chết hàng loạt sau 3 – 7 ngày khi có dấu hiệu nhiễm bệnh. Tỷ lệ chết 70 – 100% ở cá hương 2,5 – 4 cm, khi cá lớn (15 cm) tỷ lệ chết giảm còn 20%.
Đường lây truyền: Virus gây bệnh VNN ngoài lây truyền theo chiều dọc (từ mẹ sang con). Bên cạnh đó, virus có thể lây truyền theo trục ngang như qua dòng nước, lây truyền từ cá thể bị bệnh sang cá thể khỏe mạnh trong cùng một bể, chúng có thể lây lan qua các dụng cụ vận chuyển cá và các sản phẩm từ cá bị nhiễm virus từ nơi này đến nơi khác.
Mùa vụ xuất hiện bệnh: Ở Việt Nam hiện nay bệnh VNN có gần như quanh năm và bùng phát mạnh từ tháng 5 đến tháng 10, đặc biệt khi mưa nhiều. Nhiệt độ thích hợp cho sự phát triển của bệnh là 25 – 30ºC
Cơ quan đích của Betanodavirus thường xuất hiện mô não và võng mạc cá bị bệnh. Dấu hiệu bệnh lý điển hình của cá nhiễm VNN là các biểu hiện thần kinh như: bơi lội không bình thường (bơi vòng tròn, bơi ngửa, bơi hỗn loạn không định hướng,…), bỏ ăn, da tối màu, trương bóng hơi và tỷ lệ chết lớn.
Giai đoạn cấp tính thường xuất hiện tại các trại ương giống ấu trùng (từ 10 ngày tuổi đến 25 ngày tuổi). Cá giống bỏ ăn, cá chết rải rác, bơi không bình thường, bơi lội mạnh không định hướng, đầu lao xuống dưới. Cá chết và hấp hối hầu hết bóng hơi trương phồng, có sự xung huyết trong. Cá bệnh hoạt động yếu đầu treo trên mặt nước hoặc nằm dưới đáy bể hoặc đáy lồng. Nhiều cá có màu đen và thường bơi chậm chạp. Triệu chứng tăng dần khi cả quần đàn nhiễm bệnh. Cá chết sau khoảng từ 3 ngày đến 5 ngày khi có dấu hiệu bệnh.
Trong lồng, cá lớn (trên 150 g) bị bệnh VNN có ít triệu chứng hơn và tỷ lệ chết giảm. Cá thường chuyển màu đen và bơi chậm chạp với bóng hơi trương phồng và có thể hoặc không có vết bệnh ở đầu. Giải phẫu cơ quan nội tạng bình thường và ruột không có thức ăn.
Cá bệnh hoạt động yếu đầu treo trên mặt nước hoặc dưới đáy bể hoặc đáy lồng, triệu chứng tăng dần khi cả quần đàn nhiễm bệnh. Cá chết sau khoảng từ 3 đến 5 ngày sau khi có dấu hiệu bệnh.
Cá chết và sắp chết hầu hết bóng hơi trương phồng, xung huyết trong.
Chẩn đoán lâm sàng: Dựa vào các triệu chứng của bệnh.
Chẩn đoán phòng thí nghiệm: Lấy mẫu thực hiện xét nghiệm bằng phản ứng Real – time PCR.
Chọn nguồn gốc thức ăn rõ ràng, đảm bảo vệ sinh và bảo quản đúng cách để tránh lây nhiễm bệnh và ô nhiễm môi trường nuôi Ảnh: An Lâm
Bệnh do virus gây ra nên hiện chưa có thuốc điều đặc hiệu, vì vậy cần áp dụng các biện pháp phòng trị bệnh tổng hợp để hạn chế sự xâm nhập của tác nhân gây bệnh hoặc có thể sử dụng vaccine để phòng bệnh VNN. Không để cho cá bị stress do các yếu tố môi trường trong quá trình nuôi.
– Đối với các cơ sở sản xuất giống, lựa chọn cá bố mẹ không mang virus bằng cách kiểm tra trứng cá trước khi cho cá đẻ bằng kỹ thuật PCR. Sát trùng bể ương và dụng cụ bằng Chlorine 100 ppm 1 tuần/lần và rửa kỹ lại bằng nước sạch trước khi sử dụng. Loại bỏ những đàn cá bột khi đã phát hiện VNN dương tính (+) thông qua kỹ thuật PCR.
– Đối với nuôi cá lồng bè, chọn mua cá biển giống tại các cơ sở đã được cấp giấy đủ điều kiện sản xuất, ương dưỡng giống, giống có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, giống đã qua kiểm dịch. Có thể bố trí khu vực nuôi riêng, cách ly các đàn cá mới thả để theo dõi.
– Mặc dù thả giống kích cỡ nhỏ mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn, nhưng do nguy cơ của bệnh VNN gây tác hại lớn ở giống cỡ nhỏ, vì vậy khuyến cáo người nuôi thả giống cỡ lớn để hạn chế tác hại của bệnh VNN.
– Thường xuyên theo dõi sức khỏe đàn cá nuôi, có thể giảm mật độ nuôi trong giai đoạn giao mùa, hạn chế tối đa các tác động có thể làm xây xước cá – là điều kiện thuận lợi cho các loại vi khuẩn, nấm tấn công.
– Vệ sinh khu vực nuôi, khơi thông dòng chảy giảm nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cục bộ.
– Nếu có điều kiện, nên sử dụng các loại thức ăn công nghiệp thay thế thức ăn tươi sống. Trong trường hợp sử dụng thức ăn tươi sống, cần lưu ý chọn nguồn gốc rõ ràng, đảm bảo vệ sinh và bảo quản đúng cách để tránh lây nhiễm bệnh và ô nhiễm môi trường nuôi. Ngoài ra trong quá trình ương dưỡng, nuôi thường xuyên sử dụng tỏi, Beta – Glucan và Vitamin C trộn vào thức ăn cho cá. Vào thời điểm dịch bệnh thường bùng phát, bổ sung thêm Vitamin C để tăng sức đề kháng cho cá, liều lượng 20 – 30 mg/kg cá/ngày, mỗi tháng cho ăn một đợt từ 7 – 10 ngày.
– Đối với các ô lồng có dấu hiệu bị nhiễm bệnh, có khu vực nuôi cách ly với các ô lồng khác (nếu có thể), treo các túi thuốc đầu nguồn nước, hoặc tắm cho cá để diệt khuẩn khu vực bè nuôi và điều trị các bệnh do nấm, vi khuẩn, ký sinh trùng. Sử dụng các thuốc sát khuẩn để vệ sinh dụng cụ nuôi (lưới, lồng, vợt,…). Lưu ý: Do đặc thù cá biển nuôi tại khu vực nuôi hở nên cần bố trí khu vực nuôi cá khỏe mạnh và khu vực điều trị cá bệnh cho phù hợp, tránh lây nhiễm chéo.
– Các loại thức ăn, thuốc, hóa chất, sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường phải nằm trong danh mục được phép sử dụng; bảo quản, sử dụng theo hướng dẫn của nhà sản xuất và được ghi chép, lưu giữ kết quả; không sử dụng thức ăn, thuốc, hóa chất hết hạn, nhãn sản phẩm không rõ hoặc không có nhãn sản phẩm.
– Định kỳ lấy mẫu cá chẩn đoán bệnh VNN để có biện pháp ngăn ngừa.
– Theo dõi các diễn biến về thời tiết và các thông báo kết quả giám sát dịch bệnh thủy sản trong khu vực của các cơ quan chuyên môn để xây dựng kế hoạch và áp dụng các biện pháp phòng chống dịch bệnh của cơ sở cho phù hợp.
– Khi có dấu hiệu bệnh lý xảy ra cần giảm 50% lượng thức ăn hàng ngày, di chuyển cách ly ao cá giống, cá bệnh ra khỏi khu vực nuôi, hàng ngày, phải với hết cá chết trong lồng đem chôn hoặc đem đun chín.
Nguyễn Hằng