Phòng chống bệnh đốm trắng

Chưa có đánh giá về bài viết

(TSVN) – Bệnh đốm trắng (White Spot Disease – WSD) là mối đe dọa nghiêm trọng cho ngành nuôi tôm toàn cầu do tỷ lệ chết cao và không có thuốc đặc trị. Vì vậy, thực hiện tốt các biện pháp phòng bệnh là cực kỳ quan trọng.

Kiểm tra con giống

Việc xét nghiệm con giống trước khi thả nuôi là cực kỳ quan trọng và có thể thực hiện được ở các trang trại nhỏ nhằm kiểm soát bệnh đốm trắng trên tôm. Theo kết quả của một số nghiên cứu trên thế giới, kiểm tra con giống trước khi thả nuôi giúp giảm thiểu các tổn thất liên quan đến bệnh đốm trắng trên tôm. Cụ thể, tỷ lệ sống của tôm giống đã được xét nghiệm cao hơn đáng kể so với tôm chưa được xét nghiệm, đồng thời, tỷ lệ mắc bệnh cũng thấp hơn và sản lượng tôm cao hơn so với tôm chưa được xét nghiệm.

Bệnh đốm trắng là mối đe dọa nghiêm trọng cho ngành nuôi tôm toàn cầu do tỷ lệ chết cao. Ảnh: ST

Vì vậy, người nuôi cần lựa chọn nguồn giống sạch bệnh. Nguồn giống phải không mang virus khi thả vào ao nuôi và cũng không phải là nguồn chứa virus. Để chọn tôm giống sạch bệnh, cần lựa chọn tôm từ các cơ sở uy tín, tôm bố mẹ có nguồn gốc rõ ràng và đã được xét nghiệm bệnh. Khi nhận tôm, quan sát tôm, nếu tôm khỏe mạnh sẽ bơi nhanh nhẹn, phản ứng nhanh khi có tác động (gõ nhẹ vào thành dụng cụ chứa), và có xu hướng bơi ngược dòng. Tôm có màu sắc tươi sáng, vỏ không có các đốm lạ hay dị hình, gan tụy to và có màu sắc đồng nhất. Ngoài ra, có thể kiểm tra sức khỏe tôm bằng cách gây sốc môi trường hoặc thử nghiệm tỷ lệ sống sau khi sốc độ mặn để đảm bảo tôm khỏe mạnh và thích nghi tốt với môi trường ao nuôi, giảm thiểu rủi ro dịch bệnh và tăng năng suất.

Tuân thủ quy trình xử lý nước

Trong các yếu tố đầu vào, nguồn nước dành cho nuôi tôm là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến quy trình nuôi, trong nguồn nước thường có những mối nguy như: Chứa các vi sinh vật gây hại, trứng của các loại sinh vật biển khác; Ký chủ trung gian ngoài môi trường; Các thông số của nguồn nước không nằm trong khoảng thích hợp cho tôm sinh trường và phát triển.

Do đó, nên có ao lắng để xử lý nước trước khi đưa nước vào ao nuôi, nước cấp vào ao nuôi phải được lọc qua lưới dày để không cho cá tạp và những vật mang mầm bệnh vào ao. Thông thường, diện tích ao lắng chiếm khoảng 1/3 diện tích ao nuôi và có độ sâu hơn ao nuôi từ 0,5 – 1 m. Trước khi đưa vào nuôi tôm nguồn nước phải được đảm bảo các thông số kỹ thuật: pH 7,5 – 8,5; ôxy hòa tan > 5 mg/L; độ kiềm > 80 mg/L; độ mặn 15 – 25‰. Để đảm bảo các thông số trên, người nuôi cần có quy trình xử lý nước đầu vào hiệu quả. Hiện nay, có nhiều phương pháp xử lý nước đầu vào như: lọc cơ học, lọc sinh học, xử lý bằng hóa học. Trong đó, lọc sinh học đang là giải pháp được nhiều người nuôi lựa chọn.

Ngăn chặn virus xâm nhập

Sự lây nhiễm thông qua các vật mang mầm bệnh như cua hoặc chim có thể mang các vật nhiễm bệnh giữa các ao như ăn tôm chết vào bụng và nhả ra khi chuyển qua ao khác. Vì vậy, cần có lưới để ngăn chim, hàng rào ngăn động vật sẽ giúp hạn chế lây lan dịch bệnh từ vùng này đến vùng kia hoặc từ ao nuôi này sang ao nuôi khác.

Bên cạnh đó, trong giai đoạn nuôi thương phẩm các loại thức ăn công nghiệp, chế phẩm sinh học, thuốc trị bệnh cũng là những yếu tố đầu vào cần được quản lý chặt chẽ, vì chúng cũng tồn tại nhiều mối nguy về an toàn sinh học như hết hạn sử dụng, ẩm mốc, nhiễm bệnh từ các loài trung gian như chuột, gián, thậm chí có thể có virus.

Để quản lý các mối nguy có thể phát sinh từ những vật tư nông nghiệp đầu vào, người nuôi cần lưu ý: Bảo quản vật tư, đặc biệt là thuốc, hóa chất và thức ăn theo hướng dẫn của nhà cung cấp. Các điều kiện cần chú ý nhất là nhiệt độ và độ ẩm, nếu để trong điều kiện nhiệt độ quá cao, độ ẩm cao thì ảnh hưởng lớn đến chất lượng của sản phẩm. Trong khu vực nuôi, phải đảm bảo thuốc, thức ăn, có kho chứa và để ở vị trí phù hợp.

Vệ sinh khử trùng các phương tiện ra vào trại nuôi để hạn chế tối đa lây lan mầm bệnh từ môi trường ngoài. Sử dụng các dụng cụ như lưới, xô chứa thức ăn, dụng cụ lấy mẫu riêng cho từng ao để tránh rủi ro lây nhiễm mầm bệnh giữa các ao nuôi.

Áp dụng công nghệ nuôi trong nhà lưới sẽ hạn chế việc tiếp xúc trực tiếp giữa ao nuôi với các vật chủ trung gian mang mầm bệnh. Ngoài ra, các lớp lưới sẽ hạn chế ánh sáng trực tiếp xuống ao nuôi giúp giảm việc phát sinh tảo độc trong ao nuôi tôm.

Lựa chọn mô hình nuôi thích hợp

Việc áp dụng các quy trình nuôi tôm tiên tiến – trong đó có quy trình nuôi tôm dùng chế phẩm sinh học và quy trình nuôi tôm theo công nghệ biofloc đã được chứng minh là có tác dụng rất lớn nhằm phòng, chống bệnh đốm trắng cho tôm nuôi. Hoặc người nuôi có thể lựa chọn mô hình nuôi ghép vừa đảm bảo phù hợp kinh tế và quản lý cũng mang lại hiệu quả cao như: mô hình nuôi ghép tôm sú với cá đối, cá trắm cỏ; tôm ghép cá rô phi; tôm ghép cá đối mục hay tôm ghép cá măng,…

Xử lý ao có tôm bị bệnh

Đối với ao nuôi bị bệnh đốm trắng có tôm chết ít, tiến hành thu tôm trong vòng 1 – 2 ngày nếu tôm đạt kích cỡ thu hoạch. Sau đó, cần thực hiện biện pháp cách ly ngay (đóng chặt cống; không cho nước vào và ra ngoài).

Sau khi thu tôm, khử trùng nước và dụng cụ bằng Chlorine nồng độ 40 ppm. Giữ nước sau khi xử lý Chlorine ít nhất 7 ngày trước khi xả ra môi trường. Dụng cụ và quạt nước dùng trong ao phải được phun xịt bằng nước hòa Chlorine với nồng độ 1.600 ppm hoặc nếu có thể thì ngâm trong nước hòa tan 40 ppm Chlorine trong ít nhất 3 ngày.

Nếu tôm chưa đạt cỡ thu hoạch, tôm chết nhiều (80 – 100%) thì nên vớt hết tôm chết đem tiêu hủy, sử dụng Chlorine nồng độ 40 ppm. Trong trường hợp tôm chưa chết hết thì tái xử lý Chlorine nồng độ 100 ppm.

Ao tôm bị bệnh đốm trắng, người nuôi không nên vội vàng cải tạo để thả nuôi ngay, mà nên cho ao nghỉ khoảng 1,5 – 2 tháng để cắt đứt nguồn bệnh và tái tạo lại môi trường nền đáy. Thời gian ao nghỉ nên thả cá rô phi để chúng tiêu diệt hết những loài ký chủ trung gian mang mầm bệnh còn sót lại.

Nguyễn Hằng

Bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Hãy là người đầu tiên bình luận trong bài
error: Content is protected !!