Phòng trị bệnh trùng mỏ neo trên cá nước ngọt

Chưa có đánh giá về bài viết

(TSVN) – Trùng mỏ neo là ký sinh trùng phổ biến trong nuôi trồng thủy sản, đặc biệt tại các ao nuôi cá nước ngọt. Chúng không chỉ làm chậm tốc độ tăng trưởng của cá mà còn gây suy giảm hệ miễn dịch, khiến cá dễ mắc thêm nhiều bệnh khác. Việc phát hiện sớm, xử lý đúng cách giúp bảo vệ sức khỏe cá, giảm thiểu rủi ro và nâng cao hiệu quả kinh tế.

Nguyên nhân

Trùng mỏ neo (Lernaea spp.) là một loại ký sinh trùng thuộc ngành giáp xác. Chúng có hình dạng giống mỏ neo, thân dài thẳng, kích thước trung bình từ 6 – 12 mm, bám chắc vào da, vây hoặc mang cá để hút chất dinh dưỡng từ máu và mô của vật chủ.

 Cá giống cần đảm bảo khỏe mạnh, đều cỡ, màu sắc tươi sáng. Ảnh: K. Lực

Cấu tạo của trùng mỏ neo chia làm 3 phần: đầu, ngực và bụng. Do đời sống ký sinh nên cấu tạo của trùng biến đổi cho thích hợp như đầu biến thành móc bám (giống mỏ neo tàu) dùng để ký sinh. Hình dạng móc bám là căn cứ để phân loại. Lernaea đẻ trứng vào nước. Trứng nở ra ấu trùng bơi lội tự do trong nước. Quá trình phát triển gồm 10 lần lột xác. Khi trưởng thành, sau khi giao phối xong, con cái bám ký sinh trên cá, con đực bơi lội tự do trong nước vài ngày rồi chết. Sự phát triển vòng đời trùng mỏ neo phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó nhiệt độ đóng vai trò quan trọng nhất. Nhiệt độ nước thích hợp cho sự phát triển của trùng là 26 – 28ºC.

Một số loài trùng mỏ neo thường gặp:

Lernaea lophia: Chủ yếu ký sinh trên vây, da, khoang miệng của cá mè trắng và mè hoa;

Lernaea ctenopharyngodontis: Ký sinh phổ biến trên cá trắm, thường gặp nhất trong ao nuôi;

Lernaea cyprinacea: Ký sinh trên da, mắt của cá chép, cá diếc, cá mè, cá quả.

Đặc điểm dịch tễ

Trùng mỏ neo ký sinh trên nhiều loài cá nước ngọt trên thế giới và rất phổ biến ở Việt Nam. Chúng phát triển mạnh sau mưa lớn hoặc vào thời điểm thời tiết nắng ấm. Bệnh có thể lây lan qua nước, vật liệu nuôi và cá mới nhập vào ao. Nhiệt độ thích hợp cho trùng phát triển từ 18 – 30ºC, đặc biệt các loại ao có mực nước nông, ao nước trong và đục.

Cơ chế gây bệnh: Khi bám vào cá, trùng mỏ neo tạo ra các tổn thương cơ học và mở đường cho vi khuẩn, virus tấn công, gây suy giảm sức khỏe cá.

Đối tượng nhiễm bệnh: Các loài cá nuôi nước ngọt đều có nguy cơ nhiễm loại bệnh này, đặc biệt cá mè rất nhạy cảm với bệnh này. Ký sinh trùng mỏ neo thường xuất hiện trong tất cả các ao nuôi cá con, ao nuôi cá thịt và ao nuôi cá bố mẹ ở môi trường nước ngọt, cũng như trong các hồ và bể nuôi cá cảnh.

Mùa vụ xuất hiện bệnh: Bệnh có thể xảy ra quanh năm và có tỷ lệ lây nhiễm cao.

Trùng mỏ neo thường ký sinh ở các gốc vây, hốc mắt cá. Ảnh: Thuysanlienviet

Dấu hiệu bệnh lý

Trùng mỏ neo thường ký sinh ở các gốc vây, hốc mắt cá. Đầu trùng cắm sâu vào cơ cá, thân trùng lơ lửng trong nước gây hiện tượng sưng, tấy đỏ, chảy máu, cá yếu và chết. Các tổn thương trên cá tạo điều kiện cho tác nhân gây bệnh cơ hội là nấm và vi khuẩn trong môi trường nước xâm nhập vào cá. Do kích thước trùng lớn, nhìn thấy rõ bằng mắt thường, nên dễ nhận ra bệnh. Cá bố mẹ bị nhiễm trùng mỏ neo với số lượng nhiều, tuyến sinh dục sẽ không phát triển được.

Cá bị nhiễm trùng mỏ neo thường gầy yếu, ngứa ngáy khó chịu biểu hiện cá hay quẫy đuôi hoặc cọ sát mình vào thành hoặc đáy ao, hồ, bể gây trầy xước tổn thương. Cá bơi lội chậm chạp, khả năng bắt mồi giảm dần.

Chẩn đoán bệnh

Quan sát các biểu hiện trên cá bằng mắt thường và kiểm tra bằng kính hiển vi từ da, mang và vây cá.

Trị bệnh

Có thể dùng lá xoan bón xuống ao với số lượng 0,3 – 0,5 kg/m3 nước, kết hợp cho cá ăn thuốc trị nội ngoại ký sinh trùng 2 ngày liên tục, theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Tuy nhiên cần lưu ý, sau 3 – 4 ngày đầu lá xoan phân hủy mạnh, nước thiếu ôxy, cá thường nổi đầu, hiện tượng này từ ngày thứ 5 trở đi giảm dần. Đây là biện pháp cho kết quả tốt nhất, tỷ lệ diệt trùng khoảng 80 – 90% và chi phí không quá cao.

Hoặc người nuôi cũng có thể sử dụng KMnO4 nồng độ 10 – 12 g/m3 tắm trong thời gian 30 – 60 phút (tùy vào sức khỏe cá). Khi tắm thuốc, không cho cá ăn và theo dõi phản ứng trong quá trình tắm.

Đối với những ao cá bị nhiễm tỷ lệ nặng, cá có hiện tượng bỏ ăn cần xử lý nước nhắc đi nhắc lại nhiều lần bằng các loại thuốc diệt ký sinh trùng cho đến khi cá khỏi. Tuy nhiên, người nuôi cần lưu ý, không lạm dụng hóa chất hoặc dùng liều cao, vì có thể gây ngộ độc cho cá. Sau khi diệt trùng, thay 30 – 50% nước, vệ sinh đáy ao để loại bỏ ấu trùng còn sót.

Phòng bệnh

Cần thực hiện đúng các quy trình kỹ thuật nuôi, sau mỗi vụ nuôi, vét ao, bón vôi (10 – 15 kg/100 m2). Tiến hành phơi đáy ao 3 – 5 ngày, nhằm diệt mầm bệnh, kiềm hóa môi trường và diệt tạp. Nước ao nuôi cá phải lấy từ nguồn nước sạch, không bị nhiễm bẫn từ chất thải nông nghiệp,…

Cá giống đưa vào ao nuôi cần đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật, cá khỏe mạnh, đều cỡ, màu sắc tươi sáng. Bên cạnh đó, cá giống mua về cần phải được khử trùng bằng muối ăn với liều lượng 1 kg muối/100 L nước trong 10 – 15 phút trước khi thả xuống ao, bè nuôi.

Thả cá với mật độ nuôi phù hợp. Nếu mật độ quá cao tạo điều kiện lây nhiễm nhanh chóng giữa các cá thể.

Đảm bảo cung cấp thức ăn đầy đủ dinh dưỡng. Cho cá ăn theo phương pháp “4 định”: Định chất lượng thức ăn (thức ăn phải tươi, sạch sẽ, thành phần dinh dưỡng thích hợp); Định số lượng thức ăn (dựa vào trọng lượng cá nuôi để tính lượng thức ăn); Định vị trí cho ăn (cho cá ăn một nơi cố định để cá có thói quen đến ăn tập trung tại một điểm nhất định); Định thời gian cho ăn (hàng ngày cho cá ăn 2 lần).

Ngoài ra bổ sung thêm men tiêu hóa, Vitamin C trộn cùng thức ăn cho cá ăn để tăng sức đề kháng, tăng cường hệ miễn dịch.

Định kỳ 2 lần/tháng sử dụng chế phẩm vi sinh sát khuẩn ao nuôi, tiêu diệt ký sinh trùng và các tác nhân gây bệnh khác.

Giữ nước ao sạch, không dùng nguồn nước ở các ao cá bệnh đưa vào ao nuôi vì trong các ao đó có nhiều ấu trùng của trùng mỏ neo sống tự do.

Trong quá trình nuôi, tránh các hoạt động có thể thay đổi đột ngột các yếu tố môi trường (nhiệt độ, ôxy hòa tan, pH,…), thực hiện đánh bắt, sang ao, lọc cá nhẹ nhàng, không làm xây xát cá. Khi bị sốc sức đề kháng của cá sẽ giảm và cá trở nên yếu hơn, dễ bị các sinh vật gây bệnh tấn công.

Dụng cụ của nghề nuôi nên dùng riêng biệt từng ao. Trường hợp dùng chung, phải có biện pháp khử trùng để sử dụng cho ao khác. Dụng cụ đánh bắt bằng gỗ, quần áo khi lội ao phải dùng dung dịch TCCA 20 g/m3, thuốc tím KMnO4 10 – 12 g/m3 để ngâm ít nhất 1 giờ và rửa sạch mới dùng.

Xác cá bệnh và nước thải từ bể, ao cá bệnh cần được xử lý bằng Chlorine trước khi thải ra môi trường ngoài để tránh mầm bệnh lây lan cho những vụ nuôi kế tiếp và các ao nuôi lân cận.

Nguyễn Hằng

Bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Hãy là người đầu tiên bình luận trong bài
error: Content is protected !!