(TSVN) – Rong đỏ Lithothamnium calcareum, thành phần chính trong sản phẩm Marisert mang lại nhiều lợi ích trong nuôi tôm: cải thiện hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR), tăng tỷ lệ sống, rút ngắn chu kỳ nuôi, nâng cao sản lượng, đồng thời ổn định môi trường ao và giảm nguy cơ bệnh hoại tử gan tụy cấp.
Hiện nay, thế giới ghi nhận hơn 12.000 loài rong biển, thuộc ba nhóm chính: nâu, xanh và đỏ. Không chỉ đóng vai trò quan trọng trong cân bằng hệ sinh thái biển, rong biển còn được khai thác để sản xuất mỹ phẩm, thực phẩm chức năng, alginat, cũng như làm nguồn dinh dưỡng cho người và vật nuôi.
Celtic Sea Minerals, thuộc Tập đoàn Marigot (Ireland), là doanh nghiệp dinh dưỡng vật nuôi với hơn 30 năm hoạt động, chuyên nghiên cứu và ứng dụng rong biển, đặc biệt là loài rong đỏ Lithothamnium calcareum. Với hơn 60 công trình khoa học được công bố quốc tế, sản phẩm của công ty hiện đã có mặt tại 75 quốc gia.
Rong đỏ chứa tới 74 khoáng chất, nổi bật là canxi và magiê, cùng với polysaccharide dạng hydrogel. Điểm độc đáo là quá trình thu hoạch chỉ lấy phần rong đã chết trong các vịnh hẹp ở Iceland, trong khi cây rong sống vẫn được bảo tồn. Trong suốt vòng đời, rong hấp thụ khoáng chất từ biển, sau đó hóa vôi, cứng lại và lắng xuống đáy vịnh, tạo thành lớp trầm tích dày tới 7 mét, rộng đến 11 mét.
Trong hơn 20 năm, nhiều thử nghiệm ở cả môi trường học thuật và thương mại đều cho kết quả tích cực khi bổ sung rong biển Mariset vào nuôi tôm. Thí nghiệm tại New Orleans (Mỹ) trên tôm thẻ chân trắng– loài chiếm hơn 50% sản lượng tôm nuôi toàn cầu đã ghi nhận sản phẩm Marisert giúp cải thiện hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR), giảm tỷ lệ chết, đồng thời nâng độ kiềm nước.
Marisert được ứng dụng theo hai cách: bổ sung vào công thức thức ăn (thay thế nguồn khoáng trong giai đoạn ương và nuôi thương phẩm) và hòa trực tiếp vào nước để hạn chế tình trạng suy giảm độ kiềm thường gặp vào cuối vụ nuôi.
Trong các thí nghiệm, thời gian nuôi thương phẩm trung bình đạt 84 ngày, trọng lượng bình quân 18,64g, tỷ lệ sống 81% và năng suất 7,55 kg/m³. Tốc độ tăng trưởng trung bình 1,47g/tuần, đặc biệt hiệu quả trong 50-70 ngày đầu sau thả giống.
Kết thúc giai đoạn ương (47 ngày), nhóm tôm được bổ sung 3% Marisert đạt kích cỡ trung bình lớn hơn 29% so với nhóm đối chứng, rút ngắn tám ngày nuôi, qua đó giảm đáng kể chi phí thức ăn và nhân công. Nếu áp dụng cho cả giai đoạn ương và nuôi thương phẩm, nông dân có thể tiết kiệm 16 ngày mỗi chu kỳ, tương đương bổ sung thêm 54 ngày nuôi mỗi năm, giúp tăng ít nhất 14,7% sản lượng tiềm năng. Ngoài ra, trong năm tuần cuối vụ, người nuôi không còn cần bổ sung chất đệm để ổn định kiềm, giảm chi phí chăm sóc và hóa chất.
Hai thử nghiệm khác được tiến hành tại Guatemala cùng đối tác Acuamaya (2022-2023) cũng xác nhận kết quả tích cực. Ở thí nghiệm đầu tiên, mật độ thả 80 con/m², khẩu phần 30% protein, bổ sung Marisert 3 kg trên ao 5.000 m² (5 ao đối chứng, 5 ao xử lý). Dù thời tiết lạnh cuối năm (tháng 11-12), kết quả vẫn khả quan.
Thí nghiệm thứ hai (2023) sử dụng công thức thức ăn hoàn toàn từ protein thực vật (đậu nành, 30% protein), mật độ thả 100 con/m² trên 10 ao (5 đối chứng, 5 xử lý). Thí nghiệm diễn ra trong giai đoạn mùa mưa (tháng 5-6) với nhiệt độ nước trung bình 24-28°C – thời điểm thuận lợi nhất để nuôi tôm ở Guatemala, và tiếp tục cho kết quả tích cực, dưới sự hỗ trợ kỹ thuật trực tiếp từ đội ngũ Acuamaya.
Trong một thử nghiệm mới tại châu Âu, bổ sung Marisert giúp giảm 6% mật độ vi khuẩn Vibrio liên quan đến hội chứng hoại tử gan tụy cấp (AHPND), từ đó giảm tỷ lệ chết trên cả nhóm nuôi mật độ thấp (100 con/m²) và mật độ cao (400 con/m²). Các nghiên cứu tiếp theo sẽ được triển khai để làm rõ cơ chế tác động.
Vũ Đức
Theo Fishfarmingexpert