Rong biển: Sinh kế từ “lộc biển xanh”

Chưa có đánh giá về bài viết

(TSVN) – Rong biển được coi là “lộc” của biển cả. Với đường bờ biển dài, khí hậu thuận lợi và nguồn lợi tự nhiên phong phú, Việt Nam đang đứng trước cơ hội biến rong biển thành một ngành kinh tế biển xanh, mang lại thu nhập bền vững cho hàng vạn hộ dân ven biển.

Tiềm năng rong biển tại Việt Nam

Biển Việt Nam được thiên nhiên ưu đãi với hơn 800 loài rong biển, trong đó có khoảng 90 loài mang lại giá trị kinh tế. Các nhà khoa học ước tính trữ lượng rong biển tự nhiên vào khoảng 80 – 100 tỷ tấn – một con số đủ cho thấy tiềm năng to lớn để phát triển thành ngành kinh tế biển chủ lực.

Mô hình trang trại trồng rong kết hợp nuôi hàu Thái Bình Dương và du lịch trải nghiệm tại tỉnh Quảng Ninh của STP Group. Ảnh: ST

Không chỉ dừng lại ở giá trị thực phẩm, rong biển còn có vô vàn lợi ích khác. Nó giúp làm sạch môi trường nước, hấp thụ khí CO2 gấp 5 lần cây xanh trên cạn, giảm thiểu ô nhiễm, góp phần ứng phó với biến đổi khí hậu. Đặc biệt, khi nuôi xen canh với tôm, cá hay nhuyễn thể, rong biển tận dụng hết phần dinh dưỡng thừa trong nước, vừa tiết kiệm chi phí, vừa bảo vệ môi trường, lại mang thêm nguồn thu nhập cho người nuôi.

Trên thế giới, nhiều quốc gia đã biến rong biển thành ngành kinh tế tỷ đô. Chẳng hạn, Trung Quốc, Indonesia, Hàn Quốc hay Philippines đều có những vùng chuyên canh hàng chục nghìn héc-ta, tạo ra giá trị thương mại khoảng 8,3 tỷ USD/năm. So với tiềm năng 900.000 ha có thể trồng rong biển, hiện Việt Nam mới khai thác được khoảng 16.500 ha, sản lượng 150.000 tấn/năm – một khoảng cách rất lớn nhưng cũng là dư địa phát triển đầy hứa hẹn.

Các chuyên gia dự báo, nếu có chiến lược đúng đắn, chỉ vài năm tới Việt Nam hoàn toàn có thể vươn lên top 10 quốc gia sản xuất rong biển lớn nhất thế giới.

Biến thế mạnh thành sinh kế

Tại Việt Nam, tỉnh Khánh Hòa nổi bật với các mô hình trồng và chế biến rong biển, xuất khẩu nhiều sản phẩm có giá trị cao.

Tại phường Ninh Hải, thị xã Ninh Hòa (cũ), trước kia từng bị bỏ hoang do nuôi tôm ồ ạt gây ô nhiễm. Thế nhưng từ năm 2004, một số hộ dân đã mạnh dạn đưa rong nho xuống trồng thử nghiệm. Ban đầu chỉ có vài héc-ta, nay diện tích đã mở rộng lên hơn 12 ha, với sự tham gia của cả hộ dân và doanh nghiệp. Nhiều gia đình từng nuôi tôm thua lỗ nay ổn định cuộc sống nhờ rong nho. Điển hình như gia đình ông Nguyễn Văn Ben, mỗi tháng thu từ 8 tạ đến 1 tấn rong nho, với giá trung bình 30.000 đồng/kg, thu lãi ròng khoảng 10 – 15 triệu đồng. Rong nho có thể thu hoạch 8 – 9 tháng trong năm nên rất ổn định. Không chỉ cải thiện thu nhập, việc trồng rong nho còn góp phần khôi phục môi trường nước, đưa vùng ven biển Ninh Hải trở thành “thủ phủ rong nho” của Khánh Hòa.

Tại TP. Đà Nẵng, xã Tam Hải trước kia có nhiều ao nuôi tôm bị bỏ hoang do dịch bệnh và môi trường ô nhiễm. Tận dụng diện tích này, một số hộ dân đã chuyển sang trồng rong nho. Không phải đầu tư nhiều cơ sở hạ tầng, bà con chỉ cần cải tạo lại hệ thống ao, giữ nguồn nước sạch và độ mặn ổn định là rong nho có thể phát triển tốt. Sau vài tháng, rong thu hoạch đều đặn, mang lại thu nhập hàng chục triệu đồng mỗi tháng. Mô hình này được coi là hướng đi “hai trong một”: vừa tái sử dụng diện tích ao bỏ hoang, vừa tạo sinh kế mới cho người dân ven biển, giúp nhiều gia đình “gỡ vốn” và ổn định đời sống.

Tỉnh Quảng Ngãi đang xây dựng các mô hình sinh kế bền vững gắn với rong mơ. Ảnh: Phạm Anh

Tại miền Bắc, tỉnh Quảng Ninh lại hướng tới mô hình kết hợp nuôi rong với du lịch trải nghiệm, thu hút khách vừa tham quan vừa tham gia thu hoạch rong biển. Đây là mô hình nuôi biển công nghệ cao, tích hợp nhiều hoạt động trong nuôi biển. Nổi bật nhất là dự án của STP Group. Tập đoàn kết hợp nuôi rong sụn với hàu tại vùng biển Vân Đồn, vừa tận dụng hiệu quả không gian biển, vừa cải thiện chất lượng môi trường. Mô hình được các nhà quản lý, nhà khoa học đánh giá cao.

Cũng phát triển nghề trồng rong, nhưng tỉnh Quảng Ngãi lại tập trung phát huy thế mạnh rong mơ – một loài rong nâu bám vào đá, rạn san hô ở độ sâu 3 – 6 mét. Rong mơ từ lâu được người dân xem là “lộc biển”, vừa làm thực phẩm, dược liệu, vừa là nơi trú ngụ của nhiều loài hải sản.

Diện tích rong mơ tự nhiên của tỉnh tập trung tại Bình Sơn, lên đến 250 ha, mùa khai thác rộ từ tháng 3 đến tháng 7. Tuy nhiên, trước kia, bà con thường khai thác ồ ạt, rong còn non cũng cắt, dẫn tới cạn kiệt nhanh chóng. Để giải quyết tình trạng này, dự án “Bảo vệ, khai thác và phát triển rong mơ” đã được triển khai với sự tài trợ của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) và Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF). Dự án tập trung khảo sát, vẽ bản đồ phân vùng, hướng dẫn kỹ thuật khai thác đúng mùa vụ, đồng thời nâng cao nhận thức cộng đồng.

Ngoài việc hướng dẫn kỹ thuật, dự án còn xây dựng các mô hình sinh kế bền vững gắn với rong mơ, giúp người dân có thêm nguồn thu mà vẫn bảo vệ được hệ sinh thái biển. Đây là một ví dụ điển hình cho cách tiếp cận hài hòa giữa bảo tồn và phát triển kinh tế.

Hướng đi cho ngành rong Việt Nam

Để phát triển mô hình trồng rong biển bền vững, Việt Nam cần tập trung vào xây dựng chuỗi giá trị khép kín, ứng dụng khoa học công nghệ, phát triển sản phẩm có giá trị gia tăng cao, mở rộng thị trường, bảo vệ môi trường và nguồn lợi thủy sản, cùng với việc xây dựng chiến lược, quy hoạch chi tiết và tiêu chuẩn quốc gia cho ngành rong biển.

Trong đó, cần xây dựng hệ sinh thái rong biển khép kín, bền vững. Cụ thể, tích hợp các khâu từ giống, nuôi trồng, chế biến đến tiêu thụ sản phẩm, đảm bảo sự hợp tác chặt chẽ giữa doanh nghiệp, nhà nước và người dân. Cùng đó, lấy doanh nghiệp làm trung tâm, có sự tham gia của nhà nước và người dân, tập trung phát triển các loài rong biển có hiệu quả kinh tế và hàm lượng giá trị cao.

Mặt khác, đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ và sản xuất, đầu tư nghiên cứu phát triển công nghệ nuôi trồng, đặc biệt là ở vùng biển sâu, công nghệ chế biến để tạo ra sản phẩm giá trị gia tăng cao như agar, carrageenan, alginate. Nghiên cứu, nhân giống và bổ sung các loài rong biển mới có giá trị cao, có khả năng chịu đựng với điều kiện biến đổi khí hậu. Đồng thời, phát triển các vùng nuôi thâm canh, ứng dụng công nghệ cao, đảm bảo an toàn sinh học và môi trường sinh thái.

Quan trọng hơn, ngành rong biển Việt Nam cần đa dạng hóa các sản phẩm từ rong biển, phục vụ nhu cầu công nghiệp, dịch vụ và xuất khẩu và mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước và quốc tế.

Từ Khánh Hòa đến Quảng Ngãi, từ rong nho đến rong mơ, ngành rong biển Việt Nam đang chứng minh tiềm năng lớn trong việc vừa tạo sinh kế cho người dân, vừa bảo vệ môi trường biển. Nếu có chiến lược dài hạn và sự chung tay của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân, trong tương lai không xa, rong biển sẽ không chỉ là “lộc biển xanh” mà còn trở thành một ngành kinh tế biển mũi nhọn, đưa Việt Nam vươn tầm thế giới.

Để rong biển trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và sinh kế bền vững của người dân ven biển, rất cần xây dựng bộ tiêu chuẩn quốc gia để đảm bảo chất lượng và giá trị sản phẩm rong biển. Đồng thời, xây dựng chiến lược dài hạn để đưa ngành rong biển trở thành một nền kinh tế biển, tạo ra nhiều việc làm cho người dân.

Bảo Hân

Bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Hãy là người đầu tiên bình luận trong bài
error: Content is protected !!