Thay đổi tư duy, thích ứng dài hạn

Chưa có đánh giá về bài viết

(TSVN) – Thời tiết cực đoan đang trở thành thách thức ngày càng lớn của ngành tôm. Không còn là những giải pháp ứng phó tạm thời, yêu cầu đặt ra hiện nay là cần đổi mới tư duy và xây dựng chiến lược thích ứng dài hạn để phát triển bền vững.

Từ biển khơi đến ao tôm

Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Hoàng Hiệp, chỉ trong vòng 2 tháng, 4 cơn bão liên tiếp trút xuống các tỉnh khu vực phía Bắc và Bắc Trung bộ những trận mưa lớn, kéo theo những cơn lũ lịch sử, nhấn chìm nhà cửa, đường xá, hoa màu, đồng ruộng, ao hồ, lồng bè nuôi thủy sản,… với ước tính thiệt hại ban đầu lên đến hàng chục nghìn tỷ đồng. Năm nay, bão lại thất thường, dữ dội, có sức tàn phá nặng nề mà cho đến thời điểm hiện tại vẫn chưa thể thống kê hết thiệt hại một cách chính xác.

Ứng dụng mô hình nuôi tôm công nghệ cao khép kín giúp giảm phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên. Ảnh: Tép bạc

Câu nói “Nơi cơn bão đi qua, nỗi đau còn ở lại” đã trở nên quen thuộc với nhiều người, gợi nhớ về những mất mát về người và tài sản, cùng những khó khăn, vất vả trong quá trình khôi phục sản xuất và tái thiết cuộc sống. Những vùng thường xuyên chịu ảnh hưởng của bão ngày càng rõ nét hơn, gắn liền với các khu vực ven biển – nơi nguồn sống của đông đảo người dân phụ thuộc vào nghề thủy sản. Mỗi cơn bão đều để lại những thiệt hại nghiêm trọng cho lĩnh vực này, từ việc tàu thuyền, lồng bè trên biển bị chìm hỏng, đến những ao nuôi nằm sâu trong đất liền, khiến nhiều người dân rơi vào cảnh trắng tay, khó khăn chồng chất.

Thách thức khó lường

Nuôi tôm là một trong những lĩnh vực chịu ảnh hưởng trực tiếp và rõ nét nhất từ biến động khí hậu, thời tiết và môi trường. Chỉ cần vài trận mưa lớn kéo dài cũng có thể làm thay đổi đột ngột các yếu tố môi trường ao nuôi, nguồn nước cấp, khiến tôm bị sốc, dễ phát sinh dịch bệnh và dẫn đến thiệt hại.

Trên thực tế, không khó để nhận thấy quy luật này lặp đi lặp lại hầu như mỗi mùa mưa bão. Điều đó cho thấy tính chất “rủi ro hệ thống” mà thời tiết cực đoan mang lại cho hoạt động nuôi tôm. Điều đáng nói là, dù người nuôi đã có kinh nghiệm phòng ngừa, và ngành chức năng đã ban hành nhiều khuyến cáo, nhưng việc giảm thiểu thiệt hại vẫn là một bài toán chưa có lời giải tối ưu. Không chỉ vì quy mô sản xuất đa phần còn nhỏ lẻ, trình độ quản lý môi trường ao nuôi còn hạn chế, mà còn vì hạ tầng vùng nuôi – như hệ thống cấp thoát nước, ao lắng, ao dự phòng – ở nhiều địa phương vẫn chưa được đầu tư bài bản.

Tại ĐBSCL, người dân có thể chủ động xây dựng hệ thống đê bao, thậm chí chấp nhận cắt giảm một vụ lúa để thích ứng với lũ, do đặc điểm lũ nơi đây diễn biến tương đối ổn định, có thể dự báo sớm với độ chính xác cao. Trong khi đó, bão và lũ tại khu vực miền Bắc và miền Trung đến nay vẫn diễn biến phức tạp, khó dự báo, gây nhiều thách thức trong công tác phòng, chống thiên tai.

Chủ động thích ứng thiên tai

Câu hỏi về việc cần làm gì, làm thế nào để giảm thiểu thiệt hại cho ngành tôm trước tác động của thiên tai, bão lũ không còn là mới. Các giải pháp đã được đề xuất, thậm chí triển khai ở nhiều địa phương, song hiệu quả thực tế vẫn còn là dấu hỏi lớn.

Những năm gần đây, nhờ hợp tác quốc tế và đầu tư trang thiết bị hiện đại, công tác dự báo thời tiết đã trở nên chính xác và sát thực tế hơn. Do đó, bên cạnh đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng vùng nuôi, việc điều chỉnh cơ cấu lịch thời vụ để chủ động “né” bão lũ cũng trở thành giải pháp cần thiết. Điển hình như mô hình của người dân các vùng ngập lụt thuộc khu vực ĐBSCL trong những năm qua, khi chủ động giảm bớt một vụ nuôi nhằm tăng cường an toàn cho nguồn vốn đầu tư và giảm thiểu rủi ro thiệt hại mỗi khi bão lũ đến. Đây là hướng đi khả thi, góp phần nâng cao hiệu quả và bền vững cho ngành tôm.

Tôm – lúa là một trong những mô hình canh tác thuận thiên độc đáo, hiệu quả. Ảnh: TL

Đặc biệt, việc phát triển các mô hình nuôi tôm tuần hoàn, nuôi kết hợp (tôm – cá – rong biển), hoặc mô hình nuôi tôm công nghệ cao khép kín sẽ là xu hướng tất yếu để tăng sức chống chịu với thiên tai và giảm phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên.

Bên cạnh đó, đầu tư vào nghề nuôi tôm đòi hỏi nguồn vốn lớn, nên vấn đề làm sao bảo vệ an toàn cho khoản đầu tư này là vô cùng cần thiết trước khi tính đến lợi nhuận. Tuy nhiên, đến nay các hộ nuôi vẫn chưa tìm được giải pháp hiệu quả để ứng phó với rủi ro do thiên tai, dịch bệnh, cũng như thiếu sự hỗ trợ từ bảo hiểm nuôi tôm.

Vì vậy, nên chăng, ngành tôm cần sớm thành lập quỹ hỗ trợ thiên tai cho nghề nuôi trên nguyên tắc phi lợi nhuận, hướng đến lợi ích chung của cộng đồng trong chuỗi giá trị tôm. Theo đó, các bên liên quan trong chuỗi, từ doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh giống, thức ăn, chế phẩm sinh học, đến đại lý cung ứng vật tư đầu vào, đại lý thu mua, doanh nghiệp chế biến, chủ trang trại nuôi lớn,… sẽ trích một phần lợi nhuận hằng năm đóng góp vào quỹ. Quỹ này nhằm tạo nguồn kinh phí đủ lớn để kịp thời khôi phục sản xuất sau mỗi đợt thiên tai. Đây không chỉ là giải pháp thiết thực mà còn thể hiện trách nhiệm xã hội và tinh thần tương thân tương ái, góp phần giảm thiểu thiệt hại, tránh tình trạng trắng tay sau bão lũ.

Hy vọng trong thời gian tới sẽ có thêm những giải pháp thiết thực và hiệu quả hơn nhằm giảm thiểu rủi ro do thiên tai gây ra, tránh để gánh nặng này tiếp tục đè lên vai cộng đồng người nuôi tôm – lực lượng sản xuất quan trọng nhưng vẫn còn nhiều khó khăn và dễ tổn thương trước biến động của tự nhiên. Đây cũng là cách để hiện thực hóa mục tiêu “Nơi cơn bão đi qua, nỗi đau không còn ở lại”, thay vào đó là sự phục hồi nhanh chóng của sản xuất, hoạt động nuôi tôm không bị gián đoạn sau mỗi đợt bão lũ, đồng thời góp phần củng cố niềm tin của cộng đồng người nuôi trên hành trình vươn mình, phát triển bền vững trong kỷ nguyên mới.

An Xuyên

Bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Hãy là người đầu tiên bình luận trong bài
error: Content is protected !!