Để thực sự phát triển bền vững, ngành chế biến XK phải có giải pháp phù hợp để xử lý các loại chất thải sau chế biến, một trong những tồn tại lớn của ngành hiện nay, nhằm bảo vệ và cải thiệt chất lượng môi trường sống.
Hiện trạng môi trường ở các cơ sở chế biến thủy sản
Theo Viện nghiên cứu hải sản (Viện NCHS), hiện nay cả nước ta có 1.015 cơ sở chế biến (CSCB) thủy sản quy mô lớn nhỏ khác nhau, sản xuất sản phẩm XK và tiêu dùng nội địa. Sự phát triển nhanh chóng của ngành chế biến cũng kéo theo những bất cập trong các lĩnh vực phụ trợ khác, trong đó có quản lý và xử lý chất thải sau chế biến. Các thành phần chính gây ô nhiễm môi trường từ chế biến thủy sản gồm phế liệu và chất thải rắn; chất thải lỏng; khí thải và mùi trong chế biến; môi chất lạnh và nhiều chất thải nguy hại khác. Đáng kể nhất là phế liệu và chất thải rắn, chất thải lỏng như đầu, xương, da, vây, vảy, vỏ tôm….những phế liệu dễ lên men thối rữa và phân hủy. Các chất thải này có khả năng làm xuống cấp nghiêm trọng chất lượng môi trường sống xung quanh.
Điều tra mới đây của Viện NCHS cho thấy, trong chế biến thủy sản đông lạnh, cứ sản xuất được 1 tấn thành phẩm tôm sẽ thải ra môi trường 0,75 tấn phế thải, cá tra philê là 1,8 tấn, nhuyễn thể chân đầu – 0,45 tấn, nhuyễn thể hai mảnh vỏ – 8 tấn. Tỷ lệ phế liệu và chất thải rắn phụ thuộc vào mặt hàng sản xuất và vào loài cũng như chất lượng nguyên liệu …
Chất thải lỏng từ chế biến thủy sản được coi là vấn đề nghiêm trong nhất hiện nay, có chỉ số ô nhiễm cao hơn rất nhiều so với tiêu chuẩn nước thải công nghiệp loại B dùng cho nuôi trồng thủy sản (TCVN-2005), như BOD vượt từ 10-30 lần, COD từ 9-19 lần, nitơ tổng có nơi cao gấp 9 lần. Bên cạnh đó còn có một lượng lớn nước thải là các chất tẩy rửa và khử trùng trong vệ sinh nhà xưởng và thiết bị chế biến.
Khí thải và mùi trong chế biến bao gồm các loại như khí SO2, CO2, NO2, NH3 , H2S… phát thải từ các CSCB hàng khô và bột cá. Một phần khí thải khác là môi chất lạnh rò rỉ từ hệ thống lạnh của nhà máy.
Để đánh giá thực trạng môi trường ở các CSCB thủy sản, Viện NCHS đã điều tra trực tiếp 402 cơ sở quy mô công nghiệp ở 34 tỉnh và thành phố trong cả nước. Kết quả cho thấy đã có 338 DN, chiếm tỷ lệ trên 84% cơ sở, có hệ thống xử lý nước thải (HTXLNT), chủ yếu được xây dựng trong giai đoạn 2001-2010. Trong năm 2011 có 27 DN xây mới HTXLNT.
Về lượng phế liệu thủy sản sau chế biến, khoảng gần 50% số DN có từ dưới 50 đến 100 tấn/năm; 22,6% có 100-500 tấn/năm, gần 9% có từ 500-300 tấn/năm, 36,5% có trên 500-1.000 tấn/năm và trên 27,5% có trên 1.000 tấn/năm.
Hiện nay, hầu hết phế liệu được thu gom và tận dụng để sản xuất các sản phẩm phụ như bột cá, dầu cá, chitin, chitosan và thức ăn chăn nuôi,… Do vậy, phế liệu trong CSCB thủy sản chỉ có ảnh hưởng hạn chế đến môi trường nhưng lại là nguồn thu đáng kể cho các cơ sở đó.
Kết quả phân tích nước thải của cơ sở CBTS về 9 chỉ tiêu gồm pH, BOD¬5, CO,TSS, Amoni, nitơ tổng, dầu mỡ, clo dư và coliform theo QCVN 11:2008 cho thấy, tất cả các cơ sở CB nước mắm đều đạt 100%. Các loại hình chế biến như đông lạnh, hàng khô, bột cá và tổng hợp đều có tỷ lệ ô nhiễm trên cả 9 chỉ tiêu. Trong đó mức độ ô nhiễm của cơ sở CB bột cá là cao nhất, cơ sở CB đông lạnh, hàng khô và tổng hợp tương đương nhau.
Kết quả phân tích khí thải các cơ sở CBTS về 7 chỉ tiêu, gồm bụi, SO2, CO, NO2, SO3, NH3 và H2S theo TCVN 5339:2005 (tương ứng QCVN 19:2009) cho thấy mức độ ô nhiễm của CSCB bột cá là cao nhất, tiếp theo là cơ sở hàng khô. CSCB đông lạnh và tổng hợp xấp xỉ nhay. CSCB nước mắm có mức độ ô nhiễm thấp nhất.
Những vướng mắc về quản lý môi trường
Hiện nay, các DN đang áp dụng các văn bản quy định về quản lý môi trường chủ yếu là Luật Bảo vệ môi trường (ban hành năm 2005), Nghị định 80/06/ NĐ-CP, Nghị định 21/08/NĐ- CP, Thông tư 05/08/TT-BTNMT, Thông tư 14/09/TT-BNN, Nghị định 29/11/NĐ-CP và các văn bản của địa phương.
Đến nay đã có trên 52,2% DN áp dụng “Sản xuất sạch hơn”, và một số đang trong bước đầu triển khai biện pháp này. Việc áp dụng tiêu chuẩn ISO 14001 về môi trường của các DN còn rất thấp, chỉ đạt 3,2% số DN chế biến và tiêu chuẩn về khí thải cũng chưa cao. Tuy vậy về nước thải CBTS, việc áp dụng các quy chuẩn và tiêu chuẩn của các DN đạt khá cao.
Hiện nay, ngoài lý do phải giải toả và di dời, khó khăn lớn nhất trong việc thực hiện nhiệm vụ môi trường của các DN là vấn đề tài chính. Hơn một nửa số DN vướng phải bất cập này, nhất là trong bối cảnh kinh tế suy thoái như hiện nay. Bên cạnh đó, là những khó khăn về mặt bằng, hạn chế về công nghệ xử lý và nhân lực thực hiện. Sự phối hợp không chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý chuyên ngành của Nhà nước cũng gây khó khăn phần nào trong hoạt động kiểm tra và giám sát về môi trường tại các DN.
Hầu hết các DN tham gia trong khảo sát đều có nhu cầu xây mới hoặc nâng cấp hệ thống xử lý nước thải và khí thải, cũng như đào tạo nhân lực về quản lý môi trường, về công nghệ và các vấn đề như “sản xuất sạch hơn”, sản xuất bền vững, …
Các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm
Đứng trước thực trạng môi trường của các CSCB thủy sản và năng lực quản lý chưa đầy đủ của các cơ sở này đối với chất thải và khí thải gây ô nhiễm, một số giải pháp chính nhằm giảm thiểu nguy cơ này đã được Bộ NN&PTNT đề xuất.
Đối với các cơ quan quản lý trung ương
Cho phép các cơ sở CBTS nằm ngoài hoặc trong các khu công nghiệp áp dụng QCVN 11:2008/ BTNMT về nước thải công nghiệp CBTS, với 09 chỉ tiêu đặc thù (pH, BOD¬5, CO,TSS, nitơ tổng, dầu mỡ, clo dư và coliform) và không đưa chỉ tiêu tổng phốt pho vào; xây dựng QCVN về khí thải của các cơ sở CBTS, quy chuẩn này chỉ nên bao gồm 07 chỉ tiêu đặc thù là bụi, SO2, CO, NO2, NH3, H2S và SO3; xây dựng QCVN về chất thải nguy hại; Xây dựng định mức phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp CBTS thống nhất trong toàn quốc; có cơ chế chính sách đầu tư kinh phí, ưu đãi trong vay vốn về công tác bảo vệ môi trườngcho các CSCB,…
Đối với các cơ quan quản lý địa phương
Quy hoạch các CSCB thủy sản vào khu công nghiệp hoặc khu CBTS tập trung để quản lý hiệu quả việc thực hiện và việc áp dụng các quy chuẩn và tiêu chuẩn về môi trường; xây dựng nhà máy thu gom, xử lý chất thải nguy hại…
Đối với các CSCB thủy sản
Thực hiện nghiêm các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường; xây dựng và vận hành hệ thống xử lý ô nhiễm theo cam kết; các cơ sở mới phải xây dựng các phương án bảo vệ môi trường và trình các cơ quan có thẩm quyề phê duyệt để làm căn cứ thực hiện và giám sát.
Phải xây dựng hệ thống xử lý nước thải nếu CSCB chưa có hoặc phải sửa chữa, thay thế, nâng cấp, mở rộng cho phù hợp với công nghệ xử lý nước thải; các cơ sở CBTS cần xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác môi trường chuyên trách để có thể quản lý, vận hành hệ thống và giám sát việc thực hiện các nhiệm vụ về môi trường một cách có hiệu quả.
Đại diện cho cộng đồng các nhà chế biến và XK thủy sản, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam (VASEP) cũng đã khảo sát thực tế tại các CSCB và tập hợp ý kiến các DN để kiến nghị với các cơ quan chức năng của các bộ ngành có liên quan, trong đó có đề nghị:
– Xem xét nâng mức cho phép một số thông số trong QCVN 40:2011/BTNMT ngang bằng với các nước trong khu vực, nhất là chỉ tiêu phốt pho, amoni, TSS, COD và tổng nitơ…;
– Chính thức xác nhận bùn thải của CBTS không phải là bùn thải nguy hại;
– Xây dựng chỉ tiêu và đánh giá để công bố các đơn vị đủ năng lực tư vấn và xây dựng hệ thống xử lý nước thải đảm bảo chất lượng;
– Cho phép các khu công nghiệp tự quản lý về xử lý chất thải, nước thải để dễ dàng trong việc quản lý.
– Cần có các giải pháp hỗ trợ các DN thủy sản trong việc giải quyết các chất rắn và các hoá chất độc hại nếu địa phương không có cơ sở xử lý chất thải có giấy phép hoạt động và có đủ năng lực.
Những kiến nghị trên đã được gửi tới Bộ Tài nguyên và Môi trường xem xét và sửa đổi nhằm hỗ trợ các DN giảm bớt khó khăn, giữ vững hoạt động XK trong bối cảnh khó khăn chồng chất như hiện nay.