(TSVN) – Ngày 26/6, Báo cáo “Vulnerability of Blue Foods to Human-induced Environmental Change” (tạm dịch: Tình trạng cận nguy cấp của thủy, hải sản trước biến đổi môi trường do con người gây ra) đã được công bố trên Tạp chí Nature Sustainability.
Đây là một trong 7 bài báo khoa học do dự án Blue Food Assessment (BFA) công bố, là phân tích toàn cầu đầu tiên từ trước tới nay về những tác nhân gây căng thẳng môi trường ảnh hưởng tới sản lượng và độ an toàn của thủy hải sản trên khắp thế giới.
Sản xuất thủy sản toàn cầu hoặc “thực phẩm xanh” đang phải đối mặt với thách thức duy trì nguồn cung đảm bảo tuân thủ tiêu chuẩn an toàn, bền vững trong tình trạng môi trường thay đổi. Ở đây, báo cáo đánh giá tính dễ bị tổn thương của các hệ thống “thực phẩm xanh” toàn cầu trước với những xáo trộn của môi trường và dự đoán các tác động không gian. Hơn 90% sản lượng “thực phẩm xanh” toàn cầu phải chịu rủi ro từ thay đổi môi trường. Những phát hiện này đặt nền tảng cho công tác lập bản đồ các mối đe dọa môi trường, hỗ trợ lập kế hoạch chiến lược và phát triển chính sách cho sản xuất “thực phẩm xanh” bền vững và bền vững trong điều kiện thay đổi.
Báo cáo giải thích, “thực phẩm xanh” được định nghĩa là cá, động vật có vỏ, thực vật, tảo khai thác và canh tác trong hệ sinh thái biển và nước ngọt, đóng vai trò quan trọng trong an ninh lương thực và dinh dưỡng cho hàng tỷ người, đồng thời hỗ trợ sinh kế, nền kinh tế và văn hóa trên toàn thế giới. Chúng cung cấp protein, axit béo thiết yếu và vi chất dinh dưỡng quan trọng, giúp ngăn chặn bộ ba gánh nặng dinh dưỡng, đặc biệt ở những người có thu nhập thấp, cư dân sống trên những hòn đảo nhỏ và các quốc gia đang phát triển (SIDS).
“Thực phẩm xanh” đóng vai trò quan trọng trong an ninh lương thực. Nguồn: Haikaimagazine
“Thực phẩm xanh” rất đa dạng, bao gồm hơn 540 loài được nuôi hoặc thu hoạch ở vùng nước ngọt và hơn 2.190 loài được sản xuất từ biển. Hiện nay “thực phẩm xanh” đang phải chịu những tác động rất khác nhau từ việc thay đổi môi trường. Báo cáo ghi nhận 17 tác nhân chính, trong đó có tình trạng tảo nở hoa, mực nước biển dâng, nhiệt độ thay đổi và việc sử dụng thuốc trừ sâu. Những tác nhân gây căng thẳng môi trường có ảnh hưởng xuyên quốc gia. Chúng lưu chuyển từ hệ sinh thái này tới hệ sinh thái khác, kết nối đất liền với đại dương qua nước, không khí, các loài sinh vật và con người.
Báo cáo chỉ ra, nhìn chung, ngành đánh bắt hải sản dễ bị ảnh hưởng bởi những tác nhân liên quan đến khí hậu, nhất là nhiệt độ tăng và sự axit hóa. Còn ngành NTTS chịu ảnh hưởng nhiều hơn từ tác động của bệnh tật và hiện tượng thiếu ôxy, đặc biệt những nước sản xuất thủy hải sản lớn nhất như Na Uy, Trung Quốc và Mỹ.
Tình trạng tảo nở hoa đe dọa thủy hải sản. Nguồn: Seabina
Cụ thể, những mối đe dọa chính cho ngành sản xuất thủy hải sản ở Mỹ bao gồm các loài xâm lấn, hiện tượng phú dưỡng nội địa hay tảo nở hoa, đại dương ấm lên và mực nước biển dâng. Còn ở Trung Quốc, đất nước có sản lượng thủy sản nước ngọt lớn nhất thế giới, cũng có nguy cơ chịu ảnh hưởng mạnh từ hiện tượng phú dưỡng nội địa và các sự kiện thời tiết khắc nghiệt.
Các nhà nghiên cứu cho rằng cần chú ý đặc biệt tới những nước chịu nhiều ảnh hưởng từ biến đổi môi trường, nhưng không có đủ năng lực thích nghi như Bangladesh, Eswatini, Guatemala, Honduras và Uganda. Báo cáo kêu gọi hợp tác xuyên biên giới để đưa ra những chiến lược phù hợp, trong đó cần đa dạng hóa sản xuất thủy hải sản ở những nước có nguy cơ cao.
Còn với Việt Nam, ngành NTTS đã mang lại 11 tỷ USD – mức tăng trưởng cao kỷ lục trong lịch sử phát triển của ngành, cao nhất sau 20 năm khi Việt Nam gia nhập thị trường quốc tế. Việt Nam hiện là nước sản xuất hải sản đứng thứ tư trên thế giới, sau Trung Quốc, Indonesia và Ấn Độ, theo Công ty nghiên cứu thị trường IMARC Group. Để đối phó với tình trạng biến đổi khí hậu đồng thời phát triển NTTS hiệu quả, bền vững, Chính phủ đã phê duyệt Chương trình quốc gia cùng các đề án. Trong đó, một số chiến lược được sử dụng gồm: Phát triển nuôi giống thủy sản, nuôi trồng các loài thích hợp ở từng địa phương; đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng NTTS; phát triển hệ thống sản xuất, cung ứng vật tư và công nghiệp hỗ trợ NTTS; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tổ chức sản xuất; nghiên cứu và ứng dụng công nghệ trong NTTS; quản lý sản lượng khai thác lẫn tàu bè ra khơi; kiểm soát nguồn ô nhiễm, chất thải từ các hoạt động thủy sản.
Hồng Hạnh
(Tổng hợp)