(TSVN) – Bổ sung khoáng chất đúng loại, đúng liều lượng và đúng thời điểm là giải pháp thiết thực giúp người nuôi duy trì năng suất và ổn định sức khỏe tôm.
Khoáng chất là thành phần không thể thiếu trong quá trình trao đổi chất của tôm. Canxi và magie giúp hình thành và ổn định cấu trúc vỏ; natri và kali điều chỉnh áp suất thẩm thấu và cân bằng điện giải; kẽm và sắt hỗ trợ quá trình enzyme hoạt động và miễn dịch. Ngoài ra, một số khoáng vi lượng như đồng, mangan, selen cũng ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng bắt mồi, tiêu hóa và chống ôxy hóa.
Trong điều kiện nuôi mật độ cao, tôm hấp thụ khoáng từ thức ăn và môi trường không đủ, dẫn đến nhiều rủi ro sức khỏe. Do đó, cần có kế hoạch bổ sung hợp lý để tạo nên công thức cân bằng giữa môi trường nước – đáy ao – cơ thể tôm.
Bổ sung khoáng vào sáng sớm để hạn chế thất thoát. Ảnh: TB
Canxi (Ca) và Magie (Mg): Đây là hai khoáng chất chủ lực cho quá trình hình thành và tái tạo vỏ. Thiếu canxi, tôm chậm lột vỏ, vỏ mỏng hoặc bị biến dạng. Magie lại liên quan trực tiếp đến sự cứng chắc và đàn hồi của vỏ. Trong thực tiễn, có thể dùng Dolomite (CaMg(CO₃)₂) hoặc vôi nung CaO/Ca(OH)₂. Liều lượng: Dolomite 20 – 30 kg/1.000 m² sau khi cải tạo ao, định kỳ 7 – 10 ngày bón lại 10 – 15 kg/1.000 m². Thời điểm bổ sung sau mỗi lần thay nước hoặc khi pH biến động. Đặc biệt, trước và sau khi tôm lột xác, nên tạt thêm 2 – 3 kg Dolomite/1.000 m² để giúp vỏ nhanh cứng.
Kali (K): Kali đóng vai trò trong cân bằng áp suất thẩm thấu, giúp tôm chống sốc khi độ mặn thay đổi và hỗ trợ hệ thần kinh hoạt động bình thường. Trong nuôi tôm, thường sử dụng KCl (kali clorua) liều lượng 2 – 4 kg/1.000 m³ nước, định kỳ 10 – 15 ngày/lần. Thời điểm khi tôm có biểu hiện bơi lờ đờ sau thay nước, mưa lớn hoặc độ mặn dao động nhanh. Bổ sung ngay sau những đợt mưa để tránh hiện tượng mềm vỏ và tôm bỏ ăn.
Natri (Na): Natri giúp điều chỉnh cân bằng điện giải, hỗ trợ hệ thần kinh và cơ bắp. Thiếu natri, tôm dễ bị yếu cơ, cong thân hoặc chết rải rác sau mưa. Trong ao nuôi, có thể sử dụng muối hột để bổ sung liều lượng 2 – 3 kg muối/1.000 m³, hòa tan trước khi tạt. Áp dụng khi độ mặn ao giảm đột ngột, sau mưa lớn hoặc khi cần ổn định áp suất thẩm thấu cho tôm đang lột xác.
Photpho (P): Photpho cần thiết cho sự tăng trưởng, vì tham gia vào quá trình tạo năng lượng ATP và cấu tạo xương vỏ. Thức ăn công nghiệp có bổ sung P, nhưng trong điều kiện nuôi thâm canh, lượng này thường không đủ. Có thể bổ sung bằng DAP (Diammonium phosphate) hoặc chế phẩm khoáng hữu cơ chứa photpho với lượng 1 – 2 kg/1.000 m³ nước, định kỳ 15 ngày/lần. Thời điểm trước giai đoạn tôm tăng trưởng mạnh (sau 30 ngày tuổi), hoặc khi thấy tôm chậm lớn, vỏ mỏng.
Kẽm (Zn), sắt (Fe), đồng (Cu), mangan (Mn), selen (Se): Nhóm vi khoáng này tuy cần với lượng nhỏ nhưng lại có vai trò quan trọng trong hệ enzyme, miễn dịch và chống ôxy hóa. Thường khó bổ sung trực tiếp qua môi trường, nên cần bổ sung qua thức ăn bằng premix khoáng hữu cơ. Liều lượng 2 – 3 g premix/1 kg thức ăn, cho ăn liên tục 5 – 7 ngày/tháng. Tăng cường bổ sung khi thời tiết biến động, tôm yếu, hoặc đang trong giai đoạn lột xác hàng loạt.
Silic (Si): Silic ít được chú ý nhưng lại cần thiết để ổn định cấu trúc vỏ kitin. Thường bổ sung gián tiếp qua Dolomite hoặc khoáng tổng hợp. Tùy sản phẩm, thường 3 – 5 kg/1.000 m³ nước, định kỳ 15 ngày/lần.
Bổ sung khoáng có thể thực hiện theo ba con đường: qua nước, qua thức ăn hoặc kết hợp cả hai.
Bổ sung qua nước ao: Thường áp dụng với các loại khoáng dễ hòa tan như Dolomite, KCl, muối hột. Nên tạt vào buổi tối hoặc sáng sớm để hạn chế thất thoát.
Bổ sung qua thức ăn: Giúp khoáng hấp thu trực tiếp vào cơ thể, thích hợp với các vi khoáng như Zn, Cu, Mn, Se. Nên trộn khoáng với dầu cá hoặc chất kết dính để tránh thất thoát trong nước.
Kết hợp: Đây là hướng tối ưu, vừa ổn định môi trường vừa tăng khả năng hấp thu của tôm.
Phương Đông