(TSVN) – Tôm càng xanh đang nổi lên như giải pháp bền vững thay thế tôm sú nhờ giá trị thương mại cao, ít rủi ro dịch bệnh và tiềm năng xuất khẩu lớn. Tuy nhiên, ngành này vẫn đối mặt thách thức nguồn giống, năng suất và phát triển thị trường.
Ngành nuôi tôm càng hiện tập trung vào hai loài chính: tôm càng xanh (M. rosenbergii) và tôm càng sông phương Đông (Macrobrachium nipponense, chủ yếu nuôi ở Trung Quốc). Theo FAO (2023), hai loài này chiếm 2,6% (294.000 tấn) và 2% (228.000 tấn) tổng sản lượng giáp xác toàn cầu, với giá trị thị trường năm 2020 đạt 2,29 tỷ USD (OECD, 2023).
Tôm càng xanh có giá trị thương mại cao, ít rủi ro dịch bệnh và tiềm năng xuất khẩu lớn. Ảnh: Shutterstock
Ở Ấn Độ, một nghiên cứu năm 2013 cho thấy mô hình nuôi tôm càng xanh hữu cơ xen lúa mang lại lợi nhuận cao. Dự án do Cục Xúc tiến Xuất khẩu Thủy sản Ấn Độ (MPEDA) triển khai trên đất ngập nước và mất 4 năm để đạt chứng nhận hữu cơ. Tôm xuất sang siêu thị Đức được bán giá cao hơn 15 – 20%. Tuy nhiên, dự án gặp khó khăn vì không tìm được đầu ra ổn định cho lúa hữu cơ, làm giảm khả năng duy trì lợi thế giá.
Tiến sĩ Frolan Aya, nhà khoa học tại Trung tâm Phát triển Nghề cá Đông Nam Á (SEAFDEC), cho biết tôm càng xanh là lựa chọn thay thế tiềm năng cho tôm sú nhờ giá trị thương mại cao, khả năng xuất khẩu lớn và ít nhạy cảm với dịch bệnh. Tại Philippines, giá bán lẻ tôm càng xanh hiện vào khoảng 250 – 350 peso/kg, thấp hơn tôm sú nhưng bù lại có lợi thế ít rủi ro dịch bệnh nhờ mật độ nuôi thưa.
Khác với tôm sú cần xét nghiệm dịch bệnh thường xuyên và yêu cầu cơ sở nuôi đạt chuẩn để phòng vi khuẩn, virus, mô hình nuôi thâm canh hoặc bán thâm canh tôm càng xanh chủ yếu tập trung vào quản lý dinh dưỡng và chất lượng nước. Tuy nhiên, tôm càng xanh vẫn có thể mang mầm bệnh virus của tôm sú, nên người nuôi cần thận trọng để tránh lây nhiễm chéo sang các trại nuôi tôm biển lân cận.
Tiến sĩ Maria Lourdes Aralar, cựu chuyên gia Trung tâm Phát triển Nghề cá Đông Nam Á (SEAFDEC) và là người phát triển công nghệ nuôi lồng trên hồ, cho biết: “Người nuôi có thể tận dụng ao đất, lồng lưới hoặc thậm chí cả ruộng lúa. Mô hình nuôi lồng đặc biệt phù hợp với nông dân nghèo không có đất đào ao nhờ chi phí đầu tư ban đầu thấp”.
Điểm nghẽn trong sản xuất tôm càng xanh là khâu cung cấp ấu trùng, vốn cần được ấp nở và ương tại trại giống trong 28 – 35 ngày trước khi thả ra ao hoặc lồng nuôi trên hồ. “Sản lượng hiện nay rất hạn chế do thiếu ấu trùng nuôi thương phẩm, nhưng đây vẫn là ngành đầy tiềm năng”, ông Aya nhận xét.
Trung tâm Phát triển Nghề cá Đông Nam Á (SEAFDEC) thường xuyên mở các khóa đào tạo kỹ thuật ương giống và nuôi thương phẩm tại Trạm nước ngọt Binangonan ở Rizal. Trạm này vừa nghiên cứu sản xuất ấu trùng, vừa cung cấp giống cho nông dân. Ngoài ra, còn có nguồn cung từ Trung tâm Công nghệ Thủy sản nước ngọt Quốc gia (BFAR) ở Nueva Ecija và Trung tâm Phát triển Nghề cá Quốc gia ở Pangasinan.
Ông Dan Baliao, Trưởng Bộ phận Nuôi trồng Thủy sản của SEAFDEC, cho biết cơ quan này đã phát triển hệ thống trại giống tôm càng xanh tại Tigbauan, Iloilo, với khoảng 3.000 con tôm bố mẹ. Ông nói: “Chúng tôi mới bắt đầu triển khai, nhưng khi hoàn thiện trại giống quy mô lớn hơn, mục tiêu là sản xuất ấu trùng hàng loạt tại Tigbauan để cung cấp cho nông dân và tái khởi động ngành nuôi tôm càng xanh”.
Phát biểu tại Hội nghị Giant Prawn 2023 ở Bangkok, ông Robins McIntosh, Phó Chủ tịch Điều hành Tập đoàn Charoen Pokphand Foods (CPF) cho rằng, ngành nuôi tôm càng xanh có tiềm năng cạnh tranh với tôm biển trên thị trường toàn cầu. Công nghệ ương nước xanh từng giúp ngành phát triển mạnh ở châu Á, nhưng dịch bệnh MrNV vào giai đoạn 2007 – 2008 đã gây thiệt hại nặng nề. Từ năm 2014, nhờ con giống được cải thiện, sản lượng dần phục hồi và tăng khoảng 6%, dù mức tăng còn hạn chế. So với tôm biển, vốn đã ứng dụng chọn giống, bố mẹ sạch bệnh (SPF) và thuần hóa, tôm càng xanh vẫn còn trong giai đoạn đầu làm quen với các công nghệ này.
McIntosh nhận định rằng công nghệ SPF và thuần hóa, nếu được áp dụng hiệu quả, sẽ giúp tôm càng xanh đóng góp đáng kể vào sản lượng toàn cầu. Tuy nhiên, tập tính ăn thịt lẫn nhau vẫn là trở ngại lớn. Điểm mạnh của loài này là tốc độ tăng trưởng nhanh: đạt 20 g sau 55 ngày, trong khi TTCT cần 120 ngày. “Nếu có thể đạt 50 g trong cùng thời gian, ngành tôm càng sẽ tạo ra bước đột phá”, ông nói.
Từ năm 2015, Thái Lan đã đạt bước tiến lớn khi phát triển thành công công nghệ sản xuất tôm hậu ấu trùng toàn đực, nâng tỷ lệ sống tại trại giống lên 63%, thậm chí đạt 75% nếu ứng dụng thêm hệ thống biofloc. Ông McIntosh cho rằng mô hình nuôi tôm càng xanh có thể học hỏi từ Ecuador với đặc điểm ao nuôi lớn, mật độ thưa và có giai đoạn ương. Tại Thái Lan, mô hình hiệu quả nhất hiện nay là ương tôm đến cỡ giống 4 g, sau đó nuôi ghép với TTCT và tôm càng toàn đực cho đến khi đạt trọng lượng 57 g.
Khả năng phục hồi của ngành tôm càng xanh phụ thuộc vào những thách thức thị trường. Theo McIntosh, nhu cầu nội địa cao vẫn tạo dư địa tăng trưởng lớn. Tuy nhiên, để xuất khẩu, người nuôi phải chấp nhận mức giá thường thấp hơn trong nước, do nhiều thị trường nhập khẩu chưa quen tiêu thụ tôm càng xanh. Tương tự trường hợp TTCT ở Thái Lan, sản lượng tăng dần sẽ giúp thị trường quốc tế mở rộng khả năng chấp nhận.
Tiến sĩ Malasri Khumsri, Trưởng Nhóm Nghiên cứu và Kinh doanh Nuôi trồng Thủy sản (Tổng cục Thủy sản, DoF) cho biết, Thái Lan đã rút ra nhiều bài học từ quá trình xuất khẩu tôm càng xanh sang các nước châu Á. Việc vận chuyển tôm sống vẫn gặp nhiều khó khăn, trong khi quy định nhập khẩu giữa các thị trường rất khác nhau, khiến khó có thể áp dụng một tiêu chuẩn chung dù mô hình nuôi tương tự. Bà cũng nhấn mạnh các trang trại cần tiếp tục nâng cao kỹ thuật nuôi.
Tiến sĩ Patrick Sorgeloos (Đại học Ghent, Bỉ) cho biết, xuất khẩu tôm càng xanh ở khu vực này khác biệt đáng kể so với các thị trường khác trên thế giới. Ông đánh giá tôm càng xanh cỡ lớn có tiềm năng thay thế tôm hùm, nhưng nhấn mạnh công nghệ cấp đông là yếu tố then chốt để thu hẹp khoảng cách chất lượng giữa tôm tươi và tôm đông lạnh.
Thực tế, năng suất nuôi tôm càng xanh thường chỉ đạt 3 – 4 tấn/ha, thấp hơn nhiều so với tôm biển thâm canh. Tuy vậy, mô hình nuôi toàn đực giúp nâng năng suất đáng kể trên cùng diện tích và mật độ. McIntosh cũng nhấn mạnh rằng sản lượng có thể tăng gấp đôi nếu cải thiện tốc độ tăng trưởng qua chọn giống và tăng số vụ nuôi trong năm.
Tuy thị trường ưa chuộng tôm càng xanh cỡ lớn, sản xuất cần tập trung phát triển mô hình nuôi toàn đực để đáp ứng nhu cầu này. Đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng sẽ giúp tiếp cận phân khúc cao cấp, nơi người tiêu dùng sẵn sàng chi trả cho sản phẩm phục vụ tiệc, lễ. Để mở rộng sản xuất, cần ứng dụng công nghệ nhằm giảm chi phí nuôi.
Tuấn Minh
(Tổng hợp)