Tôm – rừng: Mô hình phát triển bền vững ven biển

Chưa có đánh giá về bài viết

(TSVN) – Nuôi tôm và phục hồi rừng ngập mặn song hành, vừa giúp nông dân tăng lợi nhuận, vừa mang lại lợi ích sinh thái, gia cố lá chắn sinh kế và an toàn cho vùng ven biển.

Nuôi tôm kết hợp phục hồi rừng

Tại Ecuador và Indonesia, tổ chức Conservation International (CI) đang hợp tác với nông dân để tái thiết kế mô hình nuôi tôm tăng năng suất trên một phần diện tích ao, đồng thời phục hồi rừng ngập mặn trên phần đất còn lại. Theo ông Dane Klinger, Giám đốc thủy sản của CI, ngành tôm phát triển quá nhanh khiến luật pháp không kịp điều chỉnh, dẫn đến tình trạng phá rừng ngập mặn để mở ao nuôi. Tuy nhiên, việc nhồi nhét tôm trong diện tích nhỏ lại làm gia tăng chất thải và nguy cơ ô nhiễm môi trường. “Chúng tôi tìm ra cách để giải quyết các thách thức này”, ông nói.

Các ao tôm bỏ hoang hoặc đang khai thác đều có thể trở thành không gian cho rừng tái sinh. Ảnh: GlobalSeafood

Cách tiếp cận mới là kết hợp nâng cấp sản xuất với hệ thống xử lý nước thải, đồng thời khôi phục rừng ngập mặn trên diện tích đất bỏ hoang hoặc ít hiệu quả. Rừng vừa giúp lọc nước, vừa khôi phục hệ sinh thái. Tại vùng châu thổ Mahakam (Đông Kalimantan, Indonesia), nơi từng 98% diện tích là rừng ngập mặn nhưng nay chỉ còn 45%, mô hình Silvofishery (ngư lâm kết hợp) đang được áp dụng. Nông dân trồng đan xen rừng ngập mặn trong ao nuôi tôm, kết hợp đa dạng đối tượng nuôi như cá, cua, rong biển.

Nghiên cứu của Giáo sư Esti Handayani Hardi, Đại học Mulawarman, cho thấy mô hình “komplangan” giữ lại rừng xung quanh ao cho năng suất gấp đôi so với kiểu “empang parit” (đào mương và trồng rừng ven bờ). Rừng giúp duy trì chất lượng nước, giảm chi phí thức ăn và hóa chất, đồng thời nâng cao chất lượng tôm, đa dạng hóa thu nhập cho nông dân. Thí điểm tại làng Muara Badak Ulu, năng suất đã tăng từ 200 lên 400 kg/ha/vụ, trong khi tôm và cá có hàm lượng axit amin và DHA cao hơn so với nuôi truyền thống. Quan trọng hơn, cộng đồng tham gia trực tiếp vào quản lý rừng, tạo sự gắn kết và nâng cao an ninh lương thực địa phương.

Nuôi tôm song hành bảo tồn rừng

Ngoài lợi ích sinh thái, các dự án thí điểm còn mang lại hiệu quả kinh tế. Ở Ecuador, CI hợp tác cùng hợp tác xã ngư dân để phục hồi thủy văn vùng rừng ngập mặn, đồng thời ký thỏa thuận sử dụng bền vững với chính phủ. Điều này cho phép ngư dân khai thác tài nguyên dưới sự giám sát môi trường, vừa hưởng lợi từ rừng vừa bảo vệ hệ sinh thái.

Năm 2023, tổ chức Sustainable Fisheries Partnership (SFP) cũng công bố báo cáo kêu gọi tích hợp phục hồi rừng ngập mặn vào các dự án cải thiện nuôi trồng thủy sản (AIP) trên quy mô toàn vùng sinh thái. Theo ông Paul Bulcock, quản lý thông tin thủy sản của SFP, việc khôi phục rừng trên diện tích đủ lớn mới đem lại toàn diện các dịch vụ sinh thái. Các ao tôm bỏ hoang hoặc đang khai thác đều có thể trở thành không gian cho rừng tái sinh, góp phần giảm phân mảnh và tạo chuỗi cung ứng bền vững hơn.

Tuy nhiên, phục hồi rừng ngập mặn không dễ dàng. Chi phí cao, cần vốn đầu tư lớn và mất đến 10 năm để rừng hồi phục đáng kể. Mặt khác, tăng sản lượng tôm cũng tiềm ẩn rủi ro dịch bệnh và phúc lợi động vật. Để giải quyết, CI hợp tác với Công ty công nghệ thủy sản Indonesia JALA, cung cấp giải pháp giám sát và cải tiến kỹ thuật cho nông dân, đồng thời xây dựng quỹ cho vay để mở rộng mô hình. Mục tiêu là giảm chi phí đầu tư, tạo ra phương thức sản xuất, phục hồi cân bằng hơn, có lợi cho rừng, tôm và người nuôi.

“Chúng tôi tin rằng nhiều quốc gia sẵn sàng tiếp nhận và điều chỉnh mô hình này. Nó không chỉ giúp phục hồi rừng ngập mặn mà còn giúp người nuôi giảm rủi ro, ít bệnh tật hơn và lợi nhuận cao hơn”, ông Klinger khẳng định. Trong khi đó, ông Bulcock nhấn mạnh: “Đây là cơ hội để ngành tôm trở thành người bảo vệ bờ biển, khắc phục những tác động trước đây và tiến xa hơn nữa”.

Vũ Đức
(Theo GlobalSeafood)

Bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Hãy là người đầu tiên bình luận trong bài
error: Content is protected !!