(Thủy sản Việt Nam) – Tổn thất sau thu hoạch hải sản ở Việt Nam hiện ở mức rất cao, trên 20% sản lượng khai thác, thậm chí lên đến 30% đối với tàu lưới kéo bảo quản bằng ướp muối. Với sản lượng khai thác trên 2 triệu tấn, mỗi năm cả nước mất khoảng 400.000 tấn hải sản, tương đương với khoảng 8.000 tỷ đồng.
Làm gì để giảm tốt thất sau thu hoạch hải sản xuống mức dưới 10%, đó là chủ đề hội nghị được Bộ NN&PTNT tổ chức tại TP Rạch Giá (Kiên Giang) ngày 10/2 vừa qua dưới sự chủ trì của Thứ trưởng Vũ Văn Tám.
Quá lạc hậu
Theo thống kê của Tổng cục Thủy sản, hiện cả nước có gần 130.000 tàu cá các loại, trong đó tàu có công suất máy dưới 20 CV là 65.000 chiếc (chiếm 50%), từ 20-50 CV có 3.000 chiếc (23,8%), từ 50 đến dưới 90 CV là 9.500 chiếc (7,3%), tàu từ 90 CV trở lên có 4.517 chiếc (18,8%). Về cơ cấu nghề nghiệp khai thác tập trung vào 5 nhóm nghề chính là: lưới kéo đáy (24%); lưới rê (35%); câu (18%); lưới vây (6%); mành, vó, chụp… (17%). Tuy vào nghề khai thác mà ngư dân có phương pháp bảo quản thủy sản khác nhau như: hầm chứa sản phẩm cách nhiệt bằng xốp ghép, thùng chứa rời, bảo quản sống (bằng tàu thông thủy)… Nhìn chung, phương pháp bảo quản hải sản của Việt Nam hiện nay quá lạc hậu, phần lớn tàu đều không bố trí hầm chứa hải sản riêng mà sử dụng các thùng chứa rời, bảo quản bằng cách ướp nước đá xay đựng trong các khay nhựa hoặc túi nilon, thập chí có những tàu vẫn bảo quản theo phương pháp thuyền thống là ướp muối.
Bảo quản cá, tôm không đảm bảo gây tổn thất hàng ngàn tỷ đồng mỗi năm.
Trong khoảng 10 năm trở lại đây, số lượng tàu cá tăng lên rất nhanh, nhưng chủ yếu là tàu nhỏ, không có hoặc có nhưng rất hạn chế về điều kiện bảo quản, trên tàu cũng không có mặt bằng để lựa chọn, phân loại hải sản. Nhiều tàu không thiết kế hầm bảo quản sản phẩm hoặc có nhưng làm bằng các vật liệu không đảm bảo cách nhiệt tốt, thậm chí ở một số tỉnh miền Trung ngư dân còn dùng bạt nhựa để làm hầm chứa. Hải sản sau khi đánh bắt được chủ yếu được bảo quản bằng đá xay, thời gian bảo quản tối đa không quá 10 ngày. Chất lượng nước đá không đảm bảo, mất vệ sinh và không đủ độ lạnh nên thời gian bảo quản ngắn. Ngư dân thường xếp thủy sản nhiều hơn định mức nên dẫn đến cá bị bầm dập trước khi vào bờ, tạo điều kiện cho vi sinh thâm nhập sâu vào thịt cá, gây ảnh hưởng đến chất lượng. Công tác vệ sinh hầm bảo quản sau mỗi chuyến biển cũng không được tốt nên cá dễ bị nhiễm vi sinh ngay khi đưa vào hầm. Thời gian mỗi chuyến biển không ổn định, trúng đàn thì rút ngắn, không trúng thì kéo dài, giá nhiên liệu, chi phí liên tục tăng nên ngư dân phải kéo dài chuyến biển để đảm bảo sản lượng đã gây ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng hải sản.
Ông Nguyễn Duy An, Giám đốc Nhà máy thực phẩm đóng hộp KTC (Công ty TNHH MTV Du lịch Thương mại Kiên Giang) cho rằng, công nghệ bảo quản cá của Việt Nam hiện quá lạc hậu nên chất lượng cá không đảm bảo. Ngay cả những tàu lớn được đóng sau này nhằm đi khai thác xa bờ nhưng vẫn không phải là tàu hiện đại. Tập quán tiêu thụ thủy sản quá dễ dãi, cá ươn cũng bán được đã làm cho ngư dân ít quan tâm đầu tư cho khâu bảo quản trên tàu.
Chính sách chưa đến được ngư dân
Để giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông, thủy sản, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều quyết định (Quyết định 63/2010/QĐ-TTg, Quyết định 65/2011/QĐ-TTg) nhằm hỗ trợ nông, ngư dân, các cơ sở sản xuất máy móc trong nước. Tuy nhiên, theo ý kiến của các đại biểu thì hiện đang có quá nhiều rào cản khiến chích sách chưa đến được nông, ngư dân. Ông Trần Chí Viễn, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Kiên Giang cho biết, hiện rất khó để ngư dân tiếp cập được nguồn vốn vay ưu đãi từ ngân hàng để mua máy móc, đầu tư làm hầm bảo quản hải sản. Lý do là muốn vay vốn ngân hàng yêu cầu phải có thế chấp, trong khi ngư dân đã thế chấp tài sản để vay vốn đóng tàu. Ông Viễn đề nghị nên cho ngư dân thế chấp bằng chính tài sản hình thành từ vốn vay, đồng thời mở rộng đối tượng cho các tàu làm dịch vụ hậu cần nghề cá cũng được tiếp cận nguồn vốn này. Cùng quan điểm này, ông Cao Minh Viết, Chi cục trưởng Chi cục KT&BVNLTS Bến Tre cho biết, đến nay vẫn chưa có ngư dân nào của tỉnh tiếp cận được nguồn vốn vay này. Vì vậy, cần phải gỡ những “nút thắt” để giúp ngư dân tiếp cận được nguồn vốn. Đồng thời cần tuyên truyền, hướng dẫn ngư dân thiết kế hầm bảo quản như thế nào cho đạt tiêu chuẩn.
Ông Trương Văn Ngữ, Chủ tịch Hội Nghề cá TP Rạch Giá cho biết, muốn vay được vốn ưu đãi thì ngân hàng yêu cầu phải có hóa đơn chứng từ, mua máy móc phải có tỷ lệ nội địa hóa 60% trở lên. Nhưng hiện nay trên thị trường máy móc do Việt nam chế tạo rất hiếm, chất lượng cũng không đảm bảo, rồi khi cần hóa đơn doanh nghiệp lại tăng giá lên 10% nên ngư dân không mặn mà. Về vấn đề tỷ lệ hóa, ông Lâm Hoàng Sa, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang đề nghị, nên giảm tỷ lệ nội địa hóa xuống mức 40% là phù hợp.
Chủ tịch Hội Nghề cá Việt Nam Nguyễn Việt Thắng cho rằng, để giảm tổn thất trong thu hoạch hải sản thì việc đầu tiên cần làm là đầu tư đổi mới công nghệ. Nên gắn kết các chuỗi sản xuất lại với nhau, các doanh nghiệp chế biến thủy sản đông lạnh, đóng hộp có kho lạnh đạt chuẩn, nên giúp ngư dân thiết kế hầm bảo quản để nâng chất lượng hải sản. Các đơn vị nghiên cứu khoa học, công nghệ và khuyến ngư cũng phải có vai trò lớn hơn trong khai thác hải sản.
Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Vũ Văn Tám: Trong năm 2012, các địa phương cần tập trung triển khai ngay các quyết định hỗ trợ của Thủ tướng Chính phủ, phổ biến cho ngư dân biết để tiếp cận nguồn vốn. Rà soát các cơ sở sản xuất máy móc, thiết bị đáp ứng được yêu cầu để lập danh sách, kiến nghị lên cấp có thẩm quyền để hỗ trợ theo quy định. Tập trung kinh phí khuyến nông, khuyến công để làm các điểm trình diễn để ngư dân học tập, làm theo. Thành lập các tổ, đội sản suất trên biển để ngư dân cùng nhau hỗ trợ khai thác, bảo quản thủy sản tốt hơn. Loại bỏ túi nilon trong bảo quản hải sản, thay thế dần các thiết bị lạc hậu, không còn phù hợp để chuyển sang những thiết bị mới, hiệu quả hơn.
Hoàng Vũ – Trung Chánh