(TSVN) – Một đánh giá về các nghiên cứu khoa học mới nhất cho thấy, việc sử dụng bột cá trong thức ăn cho tôm có thể giảm đáng kể, mang lại hy vọng cho một ngành nuôi tôm bền vững hơn.
Ngành nuôi trồng thủy sản (NTTS) đang thực hiện sứ mệnh tìm ra chiến lược khả thi nhất để tìm kiếm nguồn thức ăn thay thế. Bột cá (FM) theo truyền thống là một trong những thành phần chính của thức ăn thủy sản, nhưng tốc độ tăng trưởng nhanh của NTTS đã khiến giá FM tăng lên đáng kể, từ 500 USD/tấn giữa những năm 1990 lên 1.510 USD/tấn vào tháng 5/2018.
Ngành công nghiệp tôm tiêu thụ 31% tổng lượng bột cá được sử dụng trong NTTS và chiếm 16% sản lượng thức ăn thủy sản toàn cầu. Nhu cầu đối với bột cá của ngành tôm nhiều khả năng sẽ tiếp tục tăng, do sản lượng tôm được dự báo sẽ tăng gấp đôi vào năm 2030, điều này có thể dẫn đến giá bột cá tăng 90% và giá dầu cá tăng 70%.
Thức ăn chiếm hơn 50% chi phí sản xuất tôm và được coi là một trong những thành phần quan trọng nhất quyết định thành công và lợi nhuận. FM chứa các axit amin thiết yếu chất lượng cao cùng với sự cân bằng các vitamin và khoáng chất cần thiết đảm bảo năng suất tôm tối ưu, tuy nhiên giá tăng và sản lượng không ổn định đã buộc ngành tôm phải tìm kiếm các nguồn đạm khác để thay thế.
Một trong những nguồn protein thay thế được sử dụng phổ biến nhất trong thức ăn thủy sản là khô dầu đậu nành. Đây được coi là một nguồn nguyên liệu đáng tin cậy do nguồn cung ổn định, giá cả phải chăng, chất lượng tương tự FM, đồng thời mang lại nhiều lợi ích như cấu hình axit amin cân bằng và khả năng tiêu hóa tốt.
Trước đây, khô dầu đậu nành được coi là kém hơn so FM vì sự mất cân đối của các axit amin thiết yếu và hàm lượng khoáng chất thấp. Nó cũng chứa các chất kháng dinh dưỡng như proteinase, lectin, glycinin, oligosaccharides, lectin và saponin, làm giảm năng suất tăng trưởng và thức ăn kém ngon. Tuy nhiên, nhiều đổi mới công nghệ khác nhau trong chế biến thức ăn đã được thực hiện để cải thiện chất lượng bột đậu nành trong khẩu phần ăn của tôm, bao gồm lên men, chiết xuất và áp dụng các thành phần bổ sung.
Nguồn protein động vật cũng đã được thử nghiệm sử dụng như một chất bổ sung cho bột đậu nành trong nỗ lực tăng tỷ lệ thay FM. PBM là một trong những nguồn protein động vật phổ biến nhất vì có sẵn với số lượng lớn, chứa hàm lượng protein thô cao, hàm lượng axit amin cân bằng và kích thích cảm giác ngon miệng.
Trước đây người ta lo ngại sự thay đổi trong chất lượng của PBM sẽ dẫn đến thiếu các axit amin thiết yếu và khả năng tiêu hóa. Cải tiến công nghệ đã được thực hiện để giải quyết những thách thức với sự kiểm soát thời gian và nhiệt độ trong quá trình chế biến.
Trong số các thành phần làm từ gia cầm khác nhau, PBM là một trong những loại được sử dụng phổ biến nhất trong công thức thức ăn chăn nuôi, bao gồm các bộ phận đã được làm sạch của gia cầm như đầu, cổ, chân và trứng chưa phát triển… PBM chứa thành phần dinh dưỡng tương tự như FM và thích hợp để sử dụng thay thế FM trong khẩu phần ăn của tôm. Nó cho phép khả năng tiêu hóa tốt hơn, chứa hàm lượng protein thô cao hơn với các axit amin thiết yếu/không thiết yếu cân bằng và không có các yếu tố kháng dinh dưỡng.
SCP được sản xuất từ các vi sinh vật đơn bào, chẳng hạn như nấm men, vi khuẩn và tảo. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, SCP là một sự thay thế đầy hứa hẹn cho FM và dầu cá (FO) do hàm lượng protein cao với cấu hình axit amin tuyệt vời, lipid, vitamin, khoáng chất và axit nucleic. Hàm lượng protein thô trong mỗi SCP dao động 50 – 83% đối với vi khuẩn, 30 – 70% đối với nấm men và 45 – 73% đối với tảo.
Cả protein của vi khuẩn và nấm men đều có khả năng phát triển nhanh trong các chất nền khác nhau, chứa hàm lượng protein thô cao và giàu chất dinh dưỡng, chẳng hạn như vitamin tế bào và chất tạo màu.
Trong những năm qua, một số nghiên cứu đã cho thấy kết quả đáng tin cậy rằng, nấm men và vi khuẩn có thể được sử dụng làm chất phụ gia hoặc thay thế FM trong khẩu phần ăn của tôm. Một nghiên cứu vào năm 2015 cho thấy, có thể thay thế tới 45% FM trong thức ăn của TTCT với chiết xuất nấm men mà không có bất kỳ tác động tiêu cực nào đến tăng trưởng và khả năng tiêu hóa. Một thí nghiệm vào năm 2017 chỉ ra rằng, vi khuẩn Methylobacterium extorquens có thể được sử dụng thay thế FM trong khẩu phần ăn của TTCT ở mức 50 – 100% mà vẫn duy trì tăng trưởng và hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR). Một nghiên cứu vào năm 2019 cho biết, 4% bột protein đơn bào từ vi khuẩn Corynebacterium ammoniagenes có thể thay thế tới 20% FM trong khẩu phần ăn của tôm sẽ đem lại tăng trọng tương tự.
Những năm gần đây, bột côn trùng trở nên phổ biến như một chất thay thế FM vì hàm lượng và chất lượng dinh dưỡng, hiệu quả sử dụng tuyệt vời và những lợi ích sức khỏe mà nó có thể mang lại cho các loài nuôi. Bột côn trùng rất giàu axit amin, lipid, vitamin, khoáng chất và đã cho thấy tác dụng kích thích miễn dịch ở các loài động vật thủy sản khác nhau. Hầu hết bột côn trùng đều chứa hàm lượng protein thô cao 40 – 63% và những con số này còn cao hơn đối với các bữa ăn côn trùng đã khử chất béo, lên tới 83% protein thô.
Những năm gần đây, việc sử dụng bột côn trùng để thay thế bột cá đang ngày càng trở nên phổ biến Ảnh: Allaboutfeed
Trên tôm nuôi, nhiều thí nghiệm đã được thực hiện trên chế độ ăn của TTCT sử dụng bột sâu, tằm, ruồi và ruồi lính đen với thành công đáng kể.
Dù có những kết quả đầy hứa hẹn, tuy nhiên các lựa chọn thay thế này vẫn có những thách thức riêng. Mặc dù vậy, những nghiên cứu này đã cho thấy, có rất nhiều ví dụ về các nguồn protein có thể thay thế FM đầy hứa hẹn trong tương lai. Tuy nhiên, các nhà khoa học vẫn đang tìm những tác động lâu dài đến sức khỏe của việc thay thế FM trong khẩu phần ăn của tôm. Có một lo ngại rằng, việc thay thế hoàn toàn FM và FO khỏi khẩu phần ăn của tôm có thể dẫn đến suy giảm chức năng tiêu hóa và phản ứng miễn dịch yếu hơn.
Kịch bản tốt nhất cho tương lai gần là kết hợp FM với các giải pháp thay thế phù hợp. Song điều quan trọng nhất nhìn thấy lúc này là một tương lai tươi sáng của thức ăn tôm với các nguồn nguyên liệu thay thế đầy triển vọng, giá cả phải chăng, sẵn có và bền vững hơn.
Phương Khang
Theo Thefishsite