(TSVN) – Chiết xuất từ rong bún (Enteromorpha intestinalis) được chứng minh có khả năng cải thiện tăng trưởng, sức khỏe và khả năng chịu đựng môi trường của TTCT trong giai đoạn ương. Đây là giải pháp tiềm năng giúp nâng cao hiệu quả và giảm rủi ro trong nuôi tôm.
TTCT (Litopenaeus vannamei) là loài được nuôi phổ biến trên toàn thế giới, đặc biệt là ở Việt Nam, do có khả năng thích nghi tốt với môi trường khắc nghiệt. Tuy nhiên, hiện nay, mô hình TTCT thâm canh vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức như: các vấn đề về môi trường, chất lượng con giống, thức ăn và dịch bệnh, làm giảm hiệu quả sản xuất.
Trong đó, chi phí thức ăn chiếm khoảng 58% tổng chi phí sản xuất trong mô hình nuôi thâm canh (Sơn và cộng sự, 2011). Để đạt hiệu quả tối ưu và thành công trong việc xây dựng chiến lược dinh dưỡng cho tôm, thức ăn cần đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về thành phần dinh dưỡng, đảm bảo độ ngon miệng và tính hấp dẫn, đặc biệt là cần bổ sung các hợp chất sinh học tự nhiên có nguồn gốc thực vật nhằm tăng cường sức khỏe vật nuôi (Tacon và cộng sự, 2013).
Rong bún (Enteromorpha intestinalis) là một loài rong lục phổ biến ở các vùng nước lợ và ven biển, đặc biệt phân bố dày ở khu vực ĐBSCL. Loài rong này có tốc độ sinh trưởng nhanh, khả năng thích nghi tốt với điều kiện môi trường khắc nghiệt, và dễ thu hoạch với chi phí thấp.
Về mặt thành phần sinh học, E. intestinalis giàu polysaccharides, protein, vitamin, khoáng chất và các hợp chất hoạt tính sinh học như polyphenol và flavonoid, có tác dụng chống ôxy hóa, kháng khuẩn và tăng cường miễn dịch. Nhờ những đặc tính này, E. intestinalis có tiềm năng lớn trong các lĩnh vực như thực phẩm chức năng, dược phẩm, sản xuất mỹ phẩm tự nhiên, và đặc biệt là trong nuôi trồng thủy sản.
Theo Ashour và cộng sự (2024), các hợp chất chiết xuất từ rong biển với hoạt tính sinh học cao khi được bổ sung vào khẩu phần ăn của tôm nuôi sẽ giúp kích thích tăng trưởng, nâng cao hệ miễn dịch và cải thiện khả năng chống chịu với stress. Tương tự, polysaccharide từ rong bún với hoạt tính sinh học cao cũng được sử dụng như chất bổ sung trong thức ăn cho tôm với liều lượng phù hợp, giúp cải thiện tăng trưởng, thúc đẩy hoạt tính enzyme tiêu hóa và tăng sức đề kháng (Liu và cộng sự, 2020; Deepak và cộng sự, 2024).
Trước thực tế này, nhóm tác giả của Đại học Cần Thơ đã thực hiện nghiên cứu nhằm đánh giá ảnh hưởng của việc bổ sung hỗn hợp polysaccharides chiết xuất từ rong bún ở các mức khác nhau vào thức ăn lên tăng trưởng, tỷ lệ sống, hiệu quả sử dụng thức ăn và khả năng chống sốc của TTCT giai đoạn giống.
Trong nghiên cứu này, các tác giả đã sử dụng TTCT (khối lượng 0,019 ± 0,005 g). Tôm được cho ăn thức ăn không bổ sung hỗn hợp chất chiết từ rong bún là nghiệm thức đối chứng, ở các nghiệm thức còn lại tôm được cho ăn với các mức bổ sung hỗn hợp chất chiết lần lượt là 0,4% và 0,8%.
Tôm được bố trí ngẫu nhiên vào 9 bể composite (dung tích 120 L), với độ mặn 15‰ và được sục khí liên tục. Ấu trùng tôm được thả với mật độ 150 con/bể (tương đương với mật độ 1.250 con/m³), có khối lượng và chiều dài ban đầu lần lượt là 0,019 g và 1,41 cm. Tôm được cho ăn 4 lần/ngày (vào lúc 7h00, 11h00, 15h00 và 19h00), với khẩu phần ban đầu là 10% khối lượng thân/ngày. Chế độ thay nước được thực hiện 1 lần/tuần, thay khoảng 20 – 30% lượng nước trong bể.
Kết quả cho thấy, sau 30 ngày ương, việc bổ sung 0,4% và 0,8% chất chiết từ rong bún vào thức ăn của tôm giúp tôm tăng trưởng nhanh hơn, có hệ số tiêu tốn thức ăn, hiệu quả sử dụng protein và khả năng chống sốc độ mặn tốt hơn so với nhóm đối chứng.
Do đó, trong giai đoạn ương giống TTCT, khuyến cáo nên bổ sung hỗn hợp polysaccharides chiết xuất từ rong bún với mức 0,4% nhằm nâng cao hiệu quả.
Nguyễn An