(TSVN) – Cá chép được nuôi rộng rãi trên cả nước do chúng thích nghi được với khí hậu, nguồn nước từ vùng cao đến đồng bằng. Chính vì thế, đây là đối tượng nuôi chính của nhiều vùng chuyên canh thủy sản.
Cá chép có thân hình thoi, mình dày, dẹp bên. Viền lưng cong, thuôn hơn viền bụng. Đầu cá thuôn, cân đối. Mõm tù. Có hai đôi râu. Miệng ở mút mõm, hướng ra phía trước, hình cung khá rộng; rạch miệng chưa tới viền trước mắt. Hàm dưới hơi dài hơn hàm trên. Môi dưới phát triển hơn môi trên. Khởi điểm của vây lưng sau khởi điểm vây bụng, gần mõm hơn tới gốc vây đuôi, gốc vây lưng dài, viền sau hơi lõm, tia đơn cuối là gai cứng rắn chắc và phía sau có răng cưa. Vây ngực, vây bụng và vây hậu môn ngắn chưa tới các gốc vây sau nó. Vây hậu môn viền sau lõm, hậu môn ở sát gốc vây hậu môn. Vây đuôi phân thùy sâu, hai thùy tương đối bằng nhau. Cá có vảy tròn lớn. Đường bên hoàn toàn, chạy thẳng giữa thân và cuống đuôi. Gốc vây bụng có vẩy nách nhỏ dài. Lưng xanh đen, hai bên thân phía dưới đường bên vàng xám, bụng trắng bạc. Gốc vây lưng và vây đuôi hơi đen. Vây đuôi và vây hậu môn đỏ da cam.
Cá chép sống ở tầng đáy của vực nước, nơi có nhiều mùn bã hữu cơ, thức ăn đáy và cỏ nước. Cá có thể sống được trong điều kiện khắc nghiệt, chịu đựng được nhiệt độ từ 0 – 400C, thích hợp ở 20 – 270C. Cá chép sống ở tầng đáy và tầng giữa. Lúc nhỏ, cá chép ăn các sinh vật phù du, ấu trùng và côn trùng. Ở giai đoạn trưởng thành, thức ăn của cá chép là các động vật đáy như nhuyễn thể giáp xác, côn trùng, ấu trùng, giun, củ, rễ và mầm non thực vật, mùn bã hữu cơ… Cá chép là loài có kích cỡ trung bình, lớn nhất có thể đạt tới 15 – 20 kg. Cá chép thành thục sau 1 năm tuổi. Sức sinh sản của cá lớn, khoảng 150.000 – 200.000 trứng/kg cá cái. Mùa vụ sinh sản kéo dài từ mùa xuân đến mùa thu nhưng tập trung nhất vào các tháng xuân, hè khoảng tháng 3 – 6 và mùa thu khoảng tháng 8 – 9.
Trên thế giới, cá chép phân bố rộng khắp các vùng trên toàn thế giới trừ Nam Mỹ, Tây Bắc Mỹ, Madagasca và châu Đại Dương. Ở Việt Nam, cá phân bố rộng trong sông ngòi, ao hồ, ruộng ở hầu hết các tính phía Bắc Việt Nam. Cá có nhiều loại như: Cá chép trắng, chép cẩm, chép hồng, chép đỏ, chép lưng gù, chép thân cao, chép Bắc Kạn…
Cá chép được xem là loài cá nuôi trong ao lâu đời nhất của nước ta. Loài cá này còn được nuôi để diệt ấu trùng muỗi. Cá còn dùng làm cá cảnh trong công nghệ di truyền màu sắc. Do đó, đây là đối tượng được nghiên cứu rất nhiều nhằm tạo giống lai năng suất, có giá trị kinh tế cao. Cá chép ở Việt Nam là loài có nhiều hình dạng khác nhau, tuy nhiên cá lưu giữ là loài cá chép trắng. Năm 1984 cá được thu từ tự nhiên và đưa về lưu giữ tại Viện Nghiên cứu NTTS I. Từ đó đến nay, trong quá trình nghiên cứu nâng cao chất lượng đàn cá chép, các nhà khoa học bằng phương pháp chọn lai giống đã tạo ra nhiều thế hệ con lai cho hiệu quả cao. Điển hình như cá chép V1, là thế hệ chọn lọc thứ 6 của những cá lai 3 máu (hay còn gọi là con lai kép) giữa cá chép Việt nam (V), Hungary (H) và Indonesia (I). Cá chép V1 là kết quả của chương trình chọn giống và lưu giữ nguồn gen thủy sản do GS.TS Trần Mai Thiên, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu NTTS I chủ trì thực hiện. Sau 15 năm gây tạo và chọn giống đến năm 1998, cá chép V1 đã được Bộ Thủy sản (nay là Bộ NN&PTNT) công nhận và cho phổ biến rộng rãi trên toàn quốc.
Cá chép V1 đã tập hợp được những đặc điểm di truyền quý, ưu điểm nổi bật với chất lượng thịt thơm ngon, khả năng chống chịu bệnh tốt của cá chép Việt Nam, khả năng tăng tăng trọng nhanh của cá chép Hungary và trứng ít dính của cá chép Indonesia. Cá chép V1 có ngoại hình khác với cá chép trắng một vài điểm như: Thân của nó cao và bầu hơn, vẩy sáng ánh vàng, đầu thuôn và cân đối. Hiện nay cá chép V1 được nuôi phổ biến ở Việt Nam, được đánh giá rất cao về giá trị kinh tế. Cá chép V1 có năng suất và chất lượng cao, phù hợp với nhiều hình thức nuôi như nuôi trong ao đất, nuôi lồng bè, nuôi hồ chứa. Tốc độ tăng trọng của cá chép V1 gấp từ 1,5 – 3 lần so với cá chép trắng Việt Nam trong cùng điều kiện nuôi dưỡng. Cá một năm tuổi có kích cỡ trung bình 1 – 1,5 kg/cá thể. Nếu nuôi thưa khả năng đạt 1,5 – 2 kg/cá thể. Đặc biệt khi cá đủ kích thước chuyển sang nuôi chép giòn hiệu quả cũng rất cao.
Trần Tiến