Xuất khẩu thủy sản: Hướng đi chiến lược từ chế biến sâu

Chưa có đánh giá về bài viết

(TSVN) – Năm 2025 đang khép lại bằng một dấu mốc đặc biệt với ngành thủy sản, khi kim ngạch xuất khẩu được dự báo vượt mốc 11 tỷ USD, mức cao nhất từ trước tới nay. Thành tích này có ý nghĩa rất lớn và là kết quả của sự nỗ lực từ cộng đồng doanh nghiệp cũng như sự chỉ đạo quyết liệt của Đảng, Chính phủ và sự vào cuộc của các bộ, ngành và địa phương.

Vượt sóng to, gió lớn

Dù thương mại quốc tế đối mặt nhiều biến động, đặc biệt từ chính sách thuế quan của Mỹ và đứt gãy chuỗi cung ứng, tác động từ thiên tai…, ngành thủy sản vẫn ghi nhận sự tăng trưởng vượt bậc thể hiện qua giá trị xuất khẩu. Theo số liệu mới nhất từ VASEP, tính đến hết tháng 11, kim ngạch toàn ngành đã vượt 10,5 tỷ USD, tăng 14,6%. Đóng góp cho tăng trưởng toàn ngành, xuất khẩu tôm đạt hơn 4,3 tỷ USD trong 11 tháng, mức tăng tới 21%; cá tra cũng đạt trên 2 tỷ USD, tăng 9%. Cá ngừ, mực, bạch tuộc và nhóm hải sản tổng hợp đều duy trì nhịp tăng hai chữ số.

Sức bật này đến từ nhiều thị trường đồng thời mở rộng. Xuất khẩu sang các nước trong Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Trung Quốc, Hồng Kông (Trung Quốc), châu Âu hay Brazil đều tăng mạnh. Chỉ riêng thị trường Mỹ có sự chững lại trong tháng 11 khi doanh nghiệp chủ động điều tiết đơn hàng để chờ các chính sách nhập khẩu hải sản mới của Mỹ và kết quả vụ kiện chống bán phá giá mặt hàng tôm. Tuy vậy, đây là sự giảm tốc mang tính kỹ thuật, không phải xu hướng dài hạn

Theo dự báo, kim ngạch xuất khẩu thủy sản cả năm 2025 sẽ đạt 11,2 – 11,3 tỷ USD, mức cao nhất từ trước đến nay; ảnh: Godaco

Với diễn biến hiện tại, ngành thủy sản dự kiến khép lại năm 2025 với 11,2 – 11,3 tỷ USD xuất khẩu, mức cao nhất từ trước đến nay. Trong đó, tôm có thể thiết lập kỷ lục mới trên 4,6 tỷ USD; cá tra tiệm cận 2,1 tỷ USD nhờ nhu cầu phục hồi tại châu Á; cá ngừ hướng tới mốc 1 tỷ USD, đánh dấu sự trở lại ấn tượng sau giai đoạn nhu cầu suy yếu.

VASEP đánh giá, trong bối cảnh thị trường thế giới còn nhiều biến động, kết quả này cho thấy sự chủ động của doanh nghiệp Việt trong việc đẩy mạnh giao hàng trước thời điểm Mỹ dự kiến áp dụng các quy định mới về nhập khẩu hải sản và trước khi có kết quả cuối cùng của vụ kiện chống bán phá giá mặt hàng tôm.

Mặt khác, với xu hướng tiêu dùng dịch chuyển sang các sản phẩm chế biến sâu, có nguồn gốc rõ ràng và tuân thủ tiêu chuẩn bền vững, tôm Việt Nam có dư địa lớn để gia tăng thị phần và giá trị xuất khẩu. Năng lực chế biến hiện đại, khả năng đáp ứng yêu cầu truy xuất nguồn gốc và chuyển đổi xanh là những lợi thế để ngành tôm tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Nếu tận dụng tốt giai đoạn thị trường tăng trưởng mạnh, Việt Nam có cơ hội mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và khẳng định vị thế trong phân khúc tôm đông lạnh giá trị cao.

Chìa khóa từ chế biến sâu

Nếu khai thác và nuôi trồng tạo ra nguyên liệu, thì chế biến chính là khâu then chốt nâng cao giá trị cho ngành thủy sản. Đặc biệt với ngành hàng cá tra, việc gia tăng sản phẩm chế biến sâu đối với mặt hàng chủ lực này không còn là sự lựa chọn, mà là con đường tất yếu của doanh nghiệp lĩnh vực này.

Không chỉ là xu hướng, sản phẩm chế biến còn là giải pháp cho nhiều mặt hàng xuất khẩu thời gian qua. Điển hình như sự tăng trưởng vượt bậc kim ngạch xuất khẩu mực, bạch tuộc. Mặc dù nguồn cung nguyên liệu trong nước vẫn khan hiếm nhưng tính đến cuối tháng 10/2025, kim ngạch xuất khẩu mực, bạch tuộc Việt Nam đạt 627 triệu USD, tăng 19% so với cùng kỳ năm 2024; với các sản phẩm chủ yếu là chế biến như mực khô ăn liền, mực một nắng, bạch tuộc chế biến sẵn, bạch tuộc luộc đông lạnh… Những sản phẩm này vừa dễ dàng sử dụng vừa đáp ứng nhu cầu tiện lợi và an toàn thực phẩm của người tiêu dùng.

Các doanh nghiệp chế biến thủy sản nói riêng, nông nghiệp nói chung đang là những tác nhân quan trọng, là đầu tàu trong việc dẫn dắt chuỗi giá trị sản xuất nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa quy mô lớn, ứng dụng khoa học công nghệ, nâng cao hiệu quả, năng lực cạnh tranh và phát triển thương hiệu nông sản Việt Nam. Công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản hiện thu hút khoảng 1,6 triệu lao động trực tiếp và hàng chục triệu lao động sản xuất nguyên liệu và dịch vụ.

Các chuyên gia nhận định rằng, chuyển dịch sang chế biến sâu không chỉ là một xu hướng, mà là điều bắt buộc để tồn tại. Doanh nghiệp nào còn chần chừ trong việc tái cấu trúc danh mục, đầu tư công nghệ và xây dựng thương hiệu thì sẽ sớm bị thị trường bỏ lại phía sau. Trái lại, những đơn vị dám thay đổi, dám đầu tư và đi trước sẽ giữ lại phần giá trị cao nhất của con cá tra Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Hiện một số doanh nghiệp đầu ngành như Công ty CP Vĩnh Hoàn đã sớm đi trước trong xu hướng này. Cơ cấu sản phẩm của Vĩnh Hoàn ngày càng đa dạng. Cá tra fillet hiện chiếm khoảng 54% tổng doanh thu, cho thấy doanh nghiệp đang mở rộng mạnh sang các sản phẩm giá trị gia tăng và phụ phẩm. Chuỗi giá trị khép kín tiếp tục là lợi thế cạnh tranh quan trọng, đặc biệt khi Vĩnh Hoàn sở hữu toàn bộ vùng nuôi đạt chuẩn quốc tế và mức tự chủ con giống lên tới 70 – 80%. Điều này giúp doanh nghiệp kiểm soát tốt chi phí đầu vào và duy trì sản lượng ổn định ngay cả khi giá thành phẩm trên thị trường biến động.

Vĩnh Hoàn đã công bố khoản đầu tư 26 triệu USD nhằm đa dạng hóa sản phẩm và tối ưu chi phí trước áp lực thuế Mỹ. Không chỉ vậy, tại Hội chợ Seafood Expo North America 2025 mới đây, doanh nghiệp này đã giới thiệu loạt sản phẩm chế biến sâu như surimi cá tra, cá tra tẩm bột đóng khay và bánh bao nhân cá tra hấp chín, cho thấy họ đã chuyển hướng rõ rệt sang các dòng hàng phục vụ thị trường cao cấp.

Phân tích từ VASEP cho thấy, không chỉ Mỹ, nhiều thị trường khác như châu Âu, Canada, Nhật Bản, Mexico… cũng đang yêu cầu sản phẩm có mức độ chế biến cao hơn. Họ không chỉ cần một miếng fillet, mà cần một sản phẩm có thể dùng được ngay: chín sẵn, đóng gói sạch, kèm nước sốt, thậm chí được thiết kế theo khẩu phần phù hợp cho kênh bán lẻ hiện đại hoặc nhà hàng. Tức là không còn là “nguyên liệu thủy sản”, mà là thực phẩm thủy sản hoàn chỉnh. Trên thực tế, các nhà nhập khẩu Mỹ và EU đang tăng đơn hàng đối với nhóm sản phẩm pangasius chế biến – chủ yếu từ Việt Nam, do các nước cạnh tranh như Ấn Độ, Indonesia chưa có năng lực chế biến đủ sâu.

Theo Chiến lược phát triển thủy sản đến năm 2030, tầm nhìn 2045 đã dược Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, ngành thủy sản đặt mục tiêu xây dựng thành ngành kinh tế có quy mô lớn, thương hiệu uy tín, tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu, cạnh tranh cao và bền vững. Ngành hướng tới phát triển kinh tế tuần hoàn, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng, thu hút các thành phần kinh tế tham gia, trong đó doanh nghiệp là nòng cốt. Đến năm 2045, thủy sản trở thành ngành kinh tế thương mại hiện đại, chế biến sâu, thuộc nhóm 3 nước sản xuất và xuất khẩu hàng đầu thế giới, đảm bảo an ninh dinh dưỡng, thực phẩm, an sinh xã hội và quốc phòng biển đảo.

Để khuyến khích chế biến sâu với ngành hàng thủy sản, theo các chuyên gia, cần có chính sách thu hút doanh nghiệp thông qua ưu đãi về vốn, đất đai, chuyển giao công nghệ. Cùng với đó, cần tăng cường phối hợp với các viện, trường và các tổ chức nghiên cứu khoa học khác cập nhật, tập huấn chuyển giao ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong sản xuất chế biến thủy sản chất lượng, an toàn. Về phía các địa phương, cần rà soát, quy hoạch lại từng xã để xác định vùng nuôi trồng chủ lực; tập trung phát triển các cụm công nghiệp chế biến nông sản gắn với vùng nguyên liệu.

Xuân Lan

Có thể thấy, tương lai của ngành thủy sản không nằm ở việc sản xuất nhiều hơn mà ở việc sản xuất thông minh hơn, khả năng tạo ra giá trị gia tăng lớn hơn từ mỗi đơn vị sản phẩm. Do đó, chuyển đổi sang chế biến sâu là con đường giúp thủy sản Việt Nam bước ra thế giới vững vàng và thu về lợi nhuận cao hơn.

 

Bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Hãy là người đầu tiên bình luận trong bài
error: Content is protected !!