Tăng sức đề kháng cho thủy sản Việt: Từ giống sạch bệnh đến công nghệ nuôi tuần hoàn

Chưa có đánh giá về bài viết

(TSVN) – Ngày 7/11 tại Cần Thơ, Cục Thủy sản và Kiểm ngư phối hợp Sở Nông nghiệp và Môi trường thành phố Cần Thơ cùng Cơ quan Hợp tác Phát triển Đức (GIZ) tổ chức Hội thảo “Giải pháp phòng, trị một số bệnh nguy hiểm và bệnh mới nổi trong nuôi thủy sản”.

Sự kiện quy tụ hàng trăm đại biểu thuộc các cơ quan quản lý, viện trường, địa phương và doanh nghiệp thủy sản, nhằm đánh giá thực trạng dịch bệnh và đề xuất giải pháp theo hướng công nghệ cao, an toàn sinh học và sản xuất theo chuỗi.

Đánh giá thực trạng dịch bệnh

Phát biểu khai mạc, ông Nhữ Văn Cẩn, Phó Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư nhấn mạnh, ngành thủy sản đang phát triển nhanh về quy mô, đa dạng đối tượng, nhưng đi kèm nguy cơ cao về dịch bệnh, đặc biệt trên tôm, cá tra, cá biển và nhóm thủy đặc sản. Nếu không có cơ chế kiểm soát bài bản, tổn thất kinh tế sẽ gia tăng, ảnh hưởng đến chỉ tiêu xuất khẩu và uy tín sản phẩm Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Ông Nhữ Văn Cẩn, Phó Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư phát biểu khai mạc. Ảnh: PV

Theo ông Cẩn, hội thảo lần này đặt trọng tâm vào hai nhóm: bệnh nguy hiểm gây thiệt hại lớn và bệnh mới nổi chưa có nhiều tài liệu, đòi hỏi phối hợp giữa nhà nước – doanh nghiệp – viện trường để xây dựng cơ sở dữ liệu và giải pháp ứng phó.

Đồng quan điểm, ông Nguyễn Tấn Nhơn, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Cần Thơ cho rằng khu vực Đồng bằng sông Cửu Long là trung tâm sản xuất thủy sản của cả nước, vì vậy việc ứng dụng khoa học – công nghệ, quản lý rủi ro và bảo vệ môi trường phải được triển khai đồng bộ.

Nhìn lại bức tranh dịch bệnh: Từ tên gọi đến thiệt hại

Tại Hội thảo, các đại biểu được nghe báo cáo kết quả nghiên cứu và cảnh báo dịch bệnh trên từng đối tượng nuôi. Tôm nuôi thương phẩm – nhóm mang về kim ngạch xuất khẩu tỷ USD mỗi năm vẫn là đối tượng chịu áp lực dịch bệnh nghiêm trọng. TS. Trần Hữu Lộc (Đại học Nông Lâm TP.HCM) cho biết, nhiều bệnh cũ đang tái bùng phát mạnh, kèm theo các tác nhân mới nguy hiểm hơn. Trong đó có: EHP gây teo gan tụy, kéo dài thời gian nuôi, giảm năng suất; EMS – hoại tử gan tụy cấp, tỷ lệ chết cao ngay giai đoạn đầu; WSSV – đốm trắng và IMNV – hoại tử cơ nhiễm trùng gây chết hàng loạt; Hội chứng phân trắng, phát triển mạnh khi môi trường ao suy giảm.

Các mầm bệnh lây lan nhanh, khó kiểm soát nếu nguồn giống, nước và môi trường ao nuôi không được bảo đảm. Việc lạm dụng kháng sinh không chỉ không hiệu quả mà còn làm tăng nguy cơ kháng thuốc, dẫn tới rào cản kỹ thuật trong xuất khẩu.

Toàn cảnh Hội thảo. Ảnh: PV

Tương tự, cá tra – mặt hàng chiến lược của Việt Nam cũng đứng trước nguy cơ lớn từ bệnh gan thận mủ do vi khuẩn Edwardsiella ictaluri và bệnh xuất huyết do Aeromonas hydrophila/A. dhakensis gây ra. TS. Lê Hồng Phước (Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II) cho biết, đây là hai bệnh phổ biến nhất, gây thiệt hại đáng kể cho các vùng nuôi trọng điểm. Việc xuất hiện nhiều chủng vi khuẩn khác nhau khiến biện pháp điều trị bằng kháng sinh kém hiệu quả, đòi hỏi giải pháp vaccine thay thế.

Cá rô phi – mặt hàng xuất khẩu tăng trưởng mạnh cũng ghi nhận nhiều bệnh do vi khuẩn và ký sinh trùng, ảnh hưởng đến chất lượng thương phẩm. Trong khi đó, các nghiên cứu từ Viện Nuôi trồng Thủy sản III cho thấy tôm hùm và nhuyễn thể – nhóm thủy đặc sản có giá trị cao đang đứng trước các tác nhân bệnh mới, nhất là tại các vùng nuôi biển công nghệ cao và vùng thí điểm tại Khánh Hòa, Lâm Đồng, Gia Lai, Đắk Lắk.

Thống kê cho thấy giai đoạn 2023–2025, số lượng lồng nuôi tôm hùm tại các địa phương tăng mạnh, sản lượng vượt 14.000 tấn tính đến tháng 10/2025. Tuy nhiên, tăng trưởng nóng nếu thiếu kiểm soát môi trường có thể làm dịch bệnh lan nhanh, gây thiệt hại lớn cho người nuôi.

Ngoài ra, các nghiên cứu từ Đại học Nha Trang cho thấy nhiều bệnh mới nổi trên cá biển như cá chim, cá mú, cá chẽm, cá hồng đỏ… có nguồn gốc từ ký sinh trùng và vi khuẩn. Những mô hình nuôi mật độ dày, chưa áp dụng công nghệ xử lý tuần hoàn nước dễ tạo điều kiện cho mầm bệnh phát tán.

Giải pháp: Từ công nghệ đến quản lý chuỗi

Điểm nổi bật của hội thảo là sự chuyển hướng từ “điều trị sau khi bệnh xuất hiện” sang “phòng ngừa ngay từ đầu”, dựa trên khoa học, công nghệ sinh học và chuẩn quốc tế.

Các nhà khoa học đề xuất sử dụng giống sạch bệnh, kiểm soát chặt nguồn nước, giám sát thường xuyên môi trường ao nuôi. Vaccine được xem là hướng đi quan trọng, thay thế việc phụ thuộc kháng sinh. Các mô hình nuôi tuần hoàn, công nghệ cao, xử lý nước và chất thải giúp giảm nguy cơ lây lan.

Chuyên gia Phạm Thanh Liêm (Đại học Cần Thơ) trình bày về phát triển nghề nuôi lươn với công nghệ sạch, nuôi tuần hoàn nước, tối ưu môi trường để giảm rủi ro bệnh tật và hướng tới chế biến sâu. Lươn được xem là sản phẩm mới tiềm năng, có thể phát triển thành ngành hàng quy mô, nếu quản lý tốt giống, môi trường và dịch bệnh.

Hướng tới sản xuất theo chuỗi giá trị

Không chỉ tập trung khía cạnh kỹ thuật, hội thảo thống nhất, phát triển chuỗi giá trị là giải pháp dài hạn, đặc biệt với các sản phẩm có giá trị cao như tôm hùm, cá tra, lươn. Khi liên kết từ con giống – nuôi thương phẩm – chế biến – tiêu thụ, rủi ro được chia sẻ, môi trường được giám sát, sản phẩm bảo đảm an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc.

Phó Cục trưởng Nhữ Văn Cẩn khẳng định, Cục Thủy sản và Kiểm ngư sẽ tham mưu Bộ xây dựng chính sách đặc thù phát triển chuỗi giá trị lươn, tương tự mô hình đã áp dụng với tôm. Cơ quan quản lý sẽ phối hợp địa phương hỗ trợ xây dựng phòng thí nghiệm chẩn đoán đạt chuẩn, tăng năng lực kiểm soát dịch bệnh, từ đó nâng cao chất lượng con giống và quy trình nuôi.

Ông Cẩn cũng lưu ý cần giảm phụ thuộc nguồn nước ngầm, hạn chế xả thải ra môi trường, ứng dụng công nghệ thông minh trong giám sát chất lượng nước và cảnh báo sớm dịch bệnh.

Điểm đáng chú ý là hội thảo không chỉ tập trung lý thuyết, mà đi sâu vào thực tiễn tại các vùng nuôi. Các doanh nghiệp phản ánh khó khăn trong xử lý môi trường, chi phí xét nghiệm bệnh, và đề nghị hoàn thiện các tiêu chuẩn để thuận lợi hơn trong xuất khẩu. Đại diện GIZ đánh giá Việt Nam có lợi thế lớn trong nuôi thủy sản, nhưng để duy trì đà tăng trưởng, sản phẩm cần đáp ứng yêu cầu nghiêm ngặt của các thị trường cao cấp. Việc giảm kháng sinh là xu hướng bắt buộc, đồng thời tạo lợi thế cạnh tranh khi hướng tới nhóm sản phẩm xanh, bền vững.

Kết thúc hội thảo, các nhà khoa học và quản lý thống nhất các nhóm giải pháp trọng tâm: Kiểm soát dịch bệnh từ gốc: giống sạch bệnh, môi trường nuôi đạt chuẩn. Phát triển vaccine, giải pháp sinh học thay thế kháng sinh. Ứng dụng công nghệ tuần hoàn nước, quan trắc môi trường tự động. Xây dựng vùng nuôi an toàn, truy xuất nguồn gốc theo chuẩn quốc tế. Tổ chức sản xuất theo chuỗi liên kết, tránh phát triển tự phát.

Lãnh đạo Cục Thủy sản và Kiểm ngư khẳng định, ngành sẽ đồng hành cùng địa phương và doanh nghiệp, hỗ trợ kỹ thuật, hoàn thiện chính sách và kết nối chuyên gia. “Mục tiêu lớn nhất là giảm rủi ro, bảo vệ người nuôi, bảo vệ môi trường và xây dựng thương hiệu thủy sản Việt Nam uy tín, an toàn”, ông Cẩn nói.

Thùy Khánh 

Bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Hãy là người đầu tiên bình luận trong bài
error: Content is protected !!