Ngành công nghiệp nuôi cá tra Việt Nam phát triển khá nhanh, mạnh, nhưng cần lưu ý những vấn đề ảnh hưởng phát triển bền vững.
Từ năm 2007 đến nay, Tổ chức Đối tác nghề cá bền vững (Sustainable Fisheries Partnership – SFP) cùng các chuyên gia Đại học Cần Thơ nhiều lần tổ chức đối thoại với các nhà sản xuất, chế biến cá tra, với hi vọng hình thành tiếng nói chung, xây dựng hệ thống sản xuất cấp vùng, tìm giải pháp khi sản xuất gặp bất lợi do biến đổi khí hậu. Đã có Ban chỉ đạo cấp quốc gia để giải quyết sự cố cho sản phẩm cá tra, nhưng chủ yếu chỉ nhìn lại sự vận hành của các bên. Làm sao xây dựng chuỗi cung ứng bền vững?.
SFP đã công bố những hồ sơ cấp vùng về nguồn lợi thủy sản, tổng hợp thông tin báo cáo khoa học công bố liên quan nghề khai thác, nuôi trồng thủy sản; chứng minh tiến trình phát triển bền vững vùng đánh bắt cá, thông qua hỗ trợ chứng nhận MSC (đánh bắt thủy sản mức độ vùng). Thị trường có nhiều thành phần tham gia, phải cùng nhau vừa khai thác vừa bảo vệ ở mức độ vùng. Theo đó, tạo liên kết các bên, thúc đẩy các nhóm liên quan xây dựng tiếng nói chung các tác nhân tham gia, biến những hội nghị bàn tròn hướng ngoại sau khi đã nghe tiếng nói người nuôi, nhà chế biến, dịch vụ, người mua, nhà quản lý, nhà nghiên cứu và tổ chức phi chính phủ.
Chilê từng đứng thứ hai thế giới về sản xuất cá hồi nhưng không quản lý cấp vùng nên khi dịch bệnh lây lan, chất lượng sản phẩm và giá bán hàng giảm khiến nhiều nhà máy ngừng hoạt động, 15.000 công nhân mất việc; tỷ lệ thất nghiệp tăng từ 4% lên 8% trong vùng; mất thị trường xuất khẩu Mỹ và EU; chỉ số phát triển kinh tế giảm 28%… Ngược lại, Scotland – nơi phát triển và quản lý cấp vùng, có lịch sử lâu dài giữa các bên liên quan từ năm 1980, xây dựng đối thoại về chính sách quản lý thủy sản, chấp nhận xây dựng và kế hoạch quản lý dịch bệnh cấp vùng – ISA (về dịch bệnh, dịch tế học, nguồn nước…) và đặc biệt, cá hồi Scotland khiến người tiêu dùng biết tới nhờ thương hiệu.
Quản lý vùng với những nội dung: thời gian tác động, khử trùng, thực hiệc nghiêm túc các quy định vệ sinh, thực hiệc và phát triển các chương trình vắc xin và chứng nhận, đảm bảo an toàn sinh học khi chuyển cá giữa các vùng với nhau…
Ngoài ra, các nhà tiêu thụ đang quan tâm thương hiệu cho cá tra. Họ sẽ so sánh tiêu chuẩn nuôi cá tra ở các vùng, đánh giá tác động môi trường ở mức độ vùng, phối hợp quản lý dịch bệnh mức độ vùng, cải thiện thúc đẩy quản lý môi trường, thức ăn, dịch bệnh. Qua đó, cải thiện quản lý liên kết các trại nuôi, xây dựng và quản lý các vùng nuôi đặc trưng, trên cơ sở phối hợp bốn nhà và các tác nhân tham gia chuỗi.