Cải tiến phương pháp sản xuất giống cá chạch lấu

Chưa có đánh giá về bài viết

(TSVN) – Ứng dụng công nghệ vi sinh trong sản xuất giống cá chạch lấu bước đầu mang lại những tín hiệu tích cực, góp phần mở hướng đi mới cho người nuôi loài thủy, đặc sản này.

Con giống khan hiếm

Cá chạch lấu (tên khoa học là Mastacembelus favus) là loài thủy sản nước ngọt có giá trị kinh tế cao. Cá có vảy màu vàng sáng, thịt trắng chắc, béo, thơm. Cá được chế biến thành rất nhiều món ăn đặc sản như cá chạch lấu trộn gỏi, cá chạch lấu nướng, cá chạch lấu kho nghệ. Hiện nay, phong trào nuôi cá chạch lấu đang phát triển nhanh tại các tỉnh An Giang, Cần Thơ, Đồng Tháp, Vĩnh Long… Do nhu cầu cá chạch lấu giống ngày càng tăng nên sản lượng các chạch lấu trong tự nhiên ngày càng sụt giảm và cũng chưa đáp ứng đủ nhu cầu của thị trường.

Cá chạch lấu giống đã được sinh sản nhân tạo thành công lần đầu tại tỉnh Quảng Nam. Đến nay, mặc dù quy trình sinh sản nhân tạo cá chạch lấu đã được áp dụng sản xuất tại một số địa phương nhưng số lượng cá giống nhân tạo còn hạn chế. Theo số liệu thống kê thì hiện nay, số lượng cơ sở sản xuất giống cá chạch lấu ở nước ta rất ít, con giống vẫn chưa đáp ứng nhu cầu nuôi thương phẩm ở các địa phương do tỷ lệ sống ương từ cá bột lên cá giống (giai đoạn 7 – 10 cm/con) còn rất thấp chỉ đạt khoảng 5 – 20%. Nguyên nhân là ở giai đoạn này cá rất dễ nhiễm bệnh, mẫn cảm với môi trường thời tiết thay đổi và rất mẫn cảm với các loại thuốc, hóa chất nên công tác trị bệnh thường không mang lại hiệu quả.

Hướng đi mới

Trước thực trạng trên, anh Nguyễn Bá Sang (xã Phú Thuận, huyện Thoại Sơn, An Giang) đã tìm tòi học hỏi và mạnh dạn ứng dụng công nghệ vi sinh vào quá trình sản xuất giống cá chạch lấu nhằm nâng cao tỷ lệ nở trứng, tỷ lệ sống và chất lượng cá giống. Anh Sang chia sẻ: “Trong khâu sinh sản, kỹ thuật ấp trứng cá chạch lấu được xem là quan trọng nhất, bởi ở giai đoạn này, nấm thủy mi thường xuất hiện làm hư hỏng trứng cá, từ đó làm giảm tỷ lệ nở. Sử dụng men vi sinh để ức chế nấm thủy mi ở giai đoạn ấp trứng trong sản xuất tôm giống có kết quả rất tốt nên tôi thử áp dụng trên cá chạch lấu, không ngờ lại đạt hiệu quả cao”.

Theo đó, khi áp dụng công nghệ vi sinh, nguồn nước ấp sau khi được lắng lọc sạch thì tiến hành sát khuẩn, sục khí trong 12 giờ để loại bỏ các vi sinh vật trong nước và phân hủy lượng chất sát khuẩn còn tồn lưu. Sau đó, tiến hành ấp chủng vi sinh khoảng 3 giờ trong môi trường, nhiệt độ thích hợp để vi sinh nhân bản phát triển lên thì mới cho vào bồn nước ấp trứng. Trứng cá sau khi thụ tinh được ấp trong bồn có vi sinh thì tỷ lệ nở cao hơn từ 25 – 30% so với cách làm trước đây. Trung bình tỷ lệ thụ tinh là 85%, tỷ lệ cá nở từ 70 – 75%. Áp dụng phương pháp này, thời gian nấm thủy mi tấn công trứng cá bị hạn chế trong quá trình ấp trứng. Nguồn nước ấp trứng trong và sạch hơn, hạn chế thay nước, lượng nước sử dụng trong quá trình ấp giảm khoảng 20%.

Ngoài ra, công nghệ vi sinh còn được áp dụng trong giai đoạn ương nuôi cá bột và cá giống, góp phần nâng cao sức đề kháng, hiệu quả sử dụng thức ăn, làm ổn định chất lượng nước và nền đáy trong ao nuôi, giảm thiểu ô nhiễm ao và môi trường xung quanh do thủy sản gây nên, từ đó sẽ giảm chi phí đầu tư.

Kết quả cho thấy, nhờ áp dụng đúng quy trình kỹ thuật và sử dụng công nghệ vi sinh trong quá trình sản xuất giống cá chạch lấu mà tỷ lệ cá nở cao, chất lượng cá bột khỏe mạnh, ít dị hình, dị tật. Cá hương, cá giống có tỷ lệ sống cao, cá ít bị nhiễm bệnh, tốc độ phát triển nhanh từ đó làm tăng thêm năng suất và giá trị sản phẩm cá chạch lấu.

Thái Thuận

Bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Hãy là người đầu tiên bình luận trong bài
error: Content is protected !!