(TSVN) – Mặc dù TS. Thierry Chopin (Canada) đặt ra khái niệm “NTTS đa dinh dưỡng tích hợp” (IMTA) nhưng chính người Trung Quốc mới đi đầu trong việc phát triển và áp dụng các hình thức nuôi ghép thực tế.
Shuanglin Dong, người đứng đầu nhóm sinh thái NTTS tại ĐH Hải dương Trung Quốc, chuyên gia hàng đầu của Trung Quốc trong IMTA, cho biết khoảng 80% NTTS nước ngọt ở Trung Quốc hiện được sản xuất trong các hệ thống nuôi ghép và khoảng 50% đối với NTTS biển.
Dong giải thích một loạt các hệ thống NTTS tích hợp hiện đang được triển khai ở Trung Quốc và những ưu điểm của chúng, đặc biệt là khả năng thu hồi chất thải của các hệ thống này; duy trì chất lượng nước; sử dụng hiệu quả các nguồn lực; và khả năng giảm bùng phát dịch bệnh.
Một trang trại cá ở Trung Quốc. Ảnh: Chen WS
Các mô hình về IMTA hiện đang được ứng dụng rộng rãi ở Trung Quốc bao gồm sản xuất tôm, ngao và tảo biển đỏ Gracilaria trong các hệ thống ao nuôi. Ông giải thích: “Trong hệ thống này, một loài là thức ăn hoặc dinh dưỡng của loài khác. Trong ngành nuôi tôm, ngao dao cạo và cá rô phi, mô hình này có thể tăng gấp đôi sản lượng tổng thể và giảm mức nitơ trong nước xuống 86%”.
Một mô hình điển hình khác là việc cùng nuôi cá nóc và tôm, cá nóc săn mồi những con tôm yếu, do đó ngăn ngừa sự bùng phát của các bệnh bao gồm cả bệnh đốm trắng (WSSV).
Dong cho biết NTTS tích hợp có 2 dạng: tích hợp các loài khác nhau và tích hợp các hệ thống khác nhau.
Tích hợp các loài
Sự tích hợp không gian như trồng tảo bẹ trên dây ở lớp trên cùng của cột nước, nuôi sò điệp trong lồng đèn ở lớp giữa và hải sâm ở trên lớp sinh vật đáy. Hoặc như hệ thống xoay vòng thả tôm và cua trong cùng một ao, thu hoạch tôm trước, sau đó đến cua, điều này dẫn đến tổng thu hoạch tăng lên. Mô hình kết hợp tạm thời như nuôi tôm trong những tháng khí hậu phù hợp, sau đó thả cá trạng nguyên vào cùng các ao sau khi thu hoạch xong tôm.
Tích hợp hệ thống sản xuất
Việc tích hợp các hệ thống khác nhau bao gồm thiết lập phân vùng, trong đó cá, hàu, tôm và rong biển đều được sản xuất trong các ao riêng biệt nhưng được kết nối với nhau. Điển hình như nuôi cá – lúa, aquaponics, cá – gà, cá – lợn, cá – lưỡng cư và NTTS trong rừng ngập mặn.
“Trung Quốc có dân số lớn nhất thế giới. Chúng tôi cần nhiều hải sản hơn. Hơn nữa, nhân loại đang phải đối mặt với những thách thức quan trọng về gia tăng dân số, ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu toàn cầu. Vì vậy, chúng tôi cấp thiết cần một quy trình có thể tăng sản lượng, giảm thiểu chất thải và tiếp nhận năng lượng liên tục. Bây giờ chúng ta cần những giải pháp hợp lý và khả thi”, GS. Dong chia sẻ.
Theo ông, tăng cường hệ sinh thái nuôi trồng thủy sản (ELIAS) là một phương tiện để “nâng cao hiệu quả và năng suất tổng thể của các hệ thống nuôi trồng thủy sản thông qua việc tích hợp hợp lý các yếu tố đầu vào của con người và các dịch vụ hệ sinh thái”.
Đây là khái niệm mới nổi về mô hình NTTS. Hầu hết RAS là các hệ thống nhân tạo cao và không tận dụng được các dịch vụ tiềm năng của hệ sinh thái. Điều này có nghĩa là các hệ thống bị hạn chế bởi lượng khí thải carbon cao hơn và chi phí cao. Để vượt qua các rào cản về chi phí vận hành và loại bỏ chất thải, RAS nên được tích hợp với các dịch vụ hệ sinh thái như phục hồi chất dinh dưỡng thông qua quang hợp của thực vật thủy sinh.
Dong nhận xét: “Thực vật thủy sinh trong RAS có thể hấp thụ nitơ hữu cơ, giải phóng ôxy hòa tan và có thể sử dụng như một sản phẩm thương mại”.
Tuy nhiên, các hệ thống SRAS vẫn còn ở giai đoạn sơ khai nhưng các chuyên gia cho biết hệ thống này có tiềm năng dài hạn đáng kể.