(TSVN) – Vừa qua, Nguyễn Thị Trúc Linh và cộng sự đã thực hiện nghiên cứu để đánh giá hiệu quả của chiết xuất lá cây giấm lên khả năng kháng vi khuẩn V. parahaemolyticus gây bệnh hoại tử gan tụy cấp tính trên TTCT, đồng thời đánh giá tốc độ tăng trưởng và khả năng đáp ứng miễn dịch trên TTCT thí nghiệm.
Bệnh hoại tử gan tụy cấp (AHPND, hay còn gọi là hội chứng tôm chết sớm – EMS) là một bệnh rất nguy hiểm ở tôm, bệnh gây chết tôm hàng loạt chỉ sau một thời gian ngắn. Bệnh được xác định do vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus mang plasmid mã hóa gen gây độc (PirA, PirB) (VpAHPND) (Tran et al., 2013; OIE, 2019). V. harveyi, V. campbellii, V. owensii và V. punensis cũng được cho là tác nhân gây bệnh AHPND vì các chủng vi khuẩn này đôi khi mang các gen độc tố có trình tự tương đồng với plasmid gây bệnh AHPND (Restrepo et al., 2018). Lee et al. (2022) cho rằng tôm khỏe vẫn có khả năng nhiễm bệnh AHPND khi tiếp xúc với tôm nhiễm AHPND trước đó đã được trữ ở -80°C.
Bụp giấm là loài thực vật hoang dã ở khu vực ven biển của Việt Nam
Theo Nguyễn Thị Trúc Linh và cộng sự, hoạt tính kháng khuẩn của các chiết xuất thảo dược cho đến nay là hoạt tính sinh học được nghiên cứu nhiều nhất, với nhiều tiềm năng ứng dụng trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản (Reverter et al., 2017). Các hợp chất được tìm thấy trong chiết xuất thảo dược có khả năng kháng khuẩn bao gồm: alkaloids, glycosides, polyphenols và terpenes (Ahn, 2017). Sử dụng thảo dược mang đến nhiều lợi ích: ít tốn kém khi sử dụng nguyên liệu thảo dược thô, có sẵn tại địa phương, dễ dàng chuẩn bị, dễ dàng bị phân hủy sinh học và không gây tác động bất lợi cho môi trường (Syahidah et al., 2015).
Thời gian gần đây, chất chiết thảo dược giúp tăng khả năng kháng vi khuẩn Vibrio và tăng cường đáp ứng miễn dịch của tôm nuôi đã được nghiên cứu (Ghosh et al., 2021).
Cây giấm (hay còn được gọi bụp giấm) là loài thực vật hoang dã ở khu vực ven biển của Việt Nam. Chúng có thể sống được những vùng đất ngọt và lợ, mặn. Theo Lợi (2004), cây giấm có khả năng sát trùng, lợi tiểu, chống ôxy hóa. Cây giấm có các thành phần hóa học như gogoetine, hibiscin (anthocyanin), glucoside hibiscritin (flavanol), riboflavin, axit ascorbic, niacin, caroten, canxi và sắt (Lade et al., 2022). Các báo cáo trước đây cho thấy chất chiết từ cây giấm có hoạt tính kháng cả vi khuẩn Gram âm (V. vulnificus, Aeromonas hydrophila, A. caviae, Escherichia coli, Salmonella enteric, Klebsiella pneumoniae, Proteus vulgaris và Pseudomonas aeruginosa) và vi khuẩn Gram dương (Staphylococcus aureus, S. epidermidis, S. mutans và Bacillus cereus) (Abdallah, 2016; Abass et al., 2022; Lade et al., 2022). Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có các kết quả nghiên cứu toàn diện về hiệu quả của cây giấm trên đối tượng thủy sản. Cụ thể như khả năng kháng vi khuẩn Vibrio gây bệnh trên tôm, khả năng kích thích tăng trưởng, tăng cường miễn dịch và chống lại vi khuẩn gây bệnh trên tôm.
Trong thí nghiệm, nguyên liệu lá cây giấm và phương pháp chiết xuất lá cây giấm (Hibiscus sabdariffa) được thu 3 đợt ở các vị trí khác nhau. Mẫu lá được rửa sạch, sấy ở 500C đến khô và sau đó được nghiền thành bột. Bột được sử dụng để chiết xuất với ba loại dung môi khác nhau. Phương pháp 1 (chiết xuất với dung môi methanol; Phương pháp 2 (chiết xuất với dung môi ethanol); Phương pháp 3 (chiết xuất với với nước nóng).
Tôm được thí nghiệm là TTCT ở giai đoạn PL15 (âm tính với bệnh đốm trắng, bệnh vi bào tử trùng và bệnh hoại tử gan tụy cấp tính). Tôm được nuôi trong ao tại trại thực nghiệm Khoa Nông nghiệp – Thủy sản, Trường Đại học Trà Vinh đến khi tôm đạt kích cỡ khoảng 10,54 ± 0,39 g/con và chiều dài 11,61 ± 0,23 cm. Trước khi bố trí vào các bể nuôi thí nghiệm, tôm được kiểm tra âm tính với mầm bệnh đốm trắng và AHPND sử dụng phương pháp PCR với đoạn mồi đặc hiệu (OIE, 2009) và chu trình nhiệt của Sirikharin et al. (2015). Tôm cũng được thuần dưỡng trong 3 ngày để quen với điều kiện môi trường trong bể nuôi trước khi bắt đầu quá trình cho ăn thử nghiệm.
Theo nhóm tác giả, chiều dài và khối lượng của tôm thí nghiệm được ghi nhận 10 ngày/lần và thực hiện trong 30 ngày thí nghiệm. Cụ thể, 5 con tôm/bể được bắt ngẫu nhiên để cân khối lượng và đo chiều dài, đánh giá tăng trưởng của tôm ở các nghiệm thức ăn thức ăn có bổ sung chất chiết lá giấm.
Vì vậy, trong thời gian nghiên cứu, nhóm tác giả đã thực hiện nhiều thử nghiệm khác nhau để đánh giá khả năng kháng vi khuẩn V. parahaemolyticus của các chất chiết lá cây giấm với dung môi chiết khác nhau và tác động của chất chiết lá cây giấm lên sự tăng trưởng và đáp ứng miễn dịch của TTCT.
Kết quả từ nghiên cứu cho thấy, chất chiết từ cả ba phương pháp đều có khả năng kháng vi khuẩn V. parahaemolyticus. Cụ thể, chất chiết lá cây giấm với dung môi methanol có khả năng kháng khuẩn cao nhất với đường kính kháng khuẩn trung bình của 3 đợt thu mẫu là 24,9 ± 0,6 mm, cao gần 1,5 lần so với đối chứng dương (với đường kính trung bình là 16,2 ± 0,6 mm). Kết quả của nghiên cứu này hoàn toàn phù hợp với các nghiên cứu trước đây. Methanol có độ phân cực cao hơn ethanol, và theo kết quả nghiên cứu, phương pháp chiết tách bằng methanol có đường kính vòng kháng khuẩn lớn hơn so với phương pháp chiết tách bằng ethanol.
Nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) và diệt khuẩn tối thiểu (MBC) của dịch chiết trong methanol lần lượt là 0,02 mg/mL và 0,08 mg/mL.
Ngoài ra, chất chiết methanol lá cây giấm còn kích thích tôm tăng trưởng khi cho tôm ăn thức ăn có bổ sung chất chiết ở nồng độ 1% và 1,5% sau 30 ngày thí nghiệm. Thông số huyết học bao gồm tổng tế bào máu (THC), bạch cầu có hạt (GC), bạch cầu không hạt (HC) của tôm ở các nghiệm thức có 1% và 1,5% chất chiết có sự tăng cường khác biệt có ý nghĩa thống kê so với nhóm đối chứng (p < 0,05).
Chất chiết lá cây giấm có tiềm năng lớn được sử dụng với vai trò là chất diệt khuẩn đối với V. parahaemolyticus. Đồng thời, chất này thích hợp là chất bổ sung vào thức ăn giúp cải thiện tăng trưởng, tăng cường miễn dịch của tôm.
Lê Loan