Chiến lược phát triển bền vững nghề khai thác hải sản của Quảng Nam đang gặp rất nhiều khó khăn. Do đó, việc đầu tư máy móc, thiết bị, công nghệ hiện đại được xem là hướng mở để nâng cao giá trị sản xuất của ngành trong thời gian đến.
NĂNG LỰC SẢN XUẤT HẠN CHẾ
Không đủ vốn đầu tư máy móc, thiết bị hiện đại để khai thác hải sản thuận lợi và nguồn nhân lực yếu kém, sử dụng không hiệu quả công nghệ hiện đại là 2 nguyên nhân chủ yếu khiến năng lực sản xuất của nghề cá Quảng Nam đạt thấp.
Sản lượng giảm
Lưới vây là nghề cá chủ lực của Quảng Nam nhưng nhiều phương tiện lại nằm bờ trong thời gian gần đây. Sản xuất kém, các bạn biển quay lưng nên nhiều chủ tàu không đủ lao động để vươn khơi đánh bắt xa bờ. Ngư dân Nguyễn Đức Nghiệp (thôn Đông Tuần, xã Tam Hải, Núi Thành) – chủ tàu lưới vây QNa-90747 có công suất 822CV cho biết, nhiều chuyến biển năm nay thu chỉ đủ bù chi; nhiều chuyến biển thua lỗ vì sản lượng đạt thấp, giá hải sản èo uột.
“Nghề lưới vây đang chịu rất nhiều áp lực. Giá dầu tăng cao khiến cho giá các nhu yếu phẩm phục vụ chuyến biển cũng tăng theo. Tàu Trung Quốc rất manh động, thường xuyên cản phá, xua đuổi nên phải chạy lòng vòng nhiều lần, tốn rất nhiều nhiên liệu. Trong khi đó, trữ lượng cá nục, cá ngừ ở vùng biển Hoàng Sa giảm dần” – ông Nghiệp nói.
Theo tính toán của ông Nghiệp, mỗi chuyến biển với chừng 15 lao động diễn ra khoảng 15 ngày ở ngư trường Hoàng Sa chi phí xấp xỉ 200 triệu đồng. Trong khi đó, giá cá nục, cá ngừ chỉ chừng 15 nghìn đồng/kg nên cần phải đạt hàng chục tấn hải sản mới có thể đảm bảo thu nhập cho bạn biển. “Thiếu lao động là thực trạng chung của nghề cá. Chỉ có tàu lưới vây nào sản xuất hiệu quả thì mới có đủ lao động vươn khơi. Bạn biển cần ổn định thu nhập mà tàu cá của tôi thiếu các thiết bị, máy móc hiện đại trợ lực nên sản lượng hải sản đạt thấp” – ông Nghiệp nói.
Sản xuất khá, tích lũy đủ vốn liếng, ngư dân Phạm Xuân Lệ (thôn Sâm Linh Tây, xã Tam Quang. Núi Thành) – chủ tàu lưới vây QNa-90315 đã đầu tư máy dò ngang Sonar trị giá hơn 300 triệu đồng để hỗ trợ quá trình khai thác hải sản ở vùng biển Hoàng Sa. Ông Lệ cho rằng, máy dò ngang hiện đại như con mắt trong lòng biển, dò được các luồng cá lớn để có thể vây bắt, thu được sản lượng lớn. Nhờ đó, trung bình mỗi chuyến biển trong mỗi năm sản xuất của tàu cá QNa-90315 đạt khá, giá trị kinh tế thu được cao.
Quảng Nam cần tiếp sức giúp ngư dân hiện đại hóa nghề cá để tăng giá trị kinh tế sau mỗi chuyến biển. Ảnh: QUANG VIỆT
Ông Võ Văn Long – Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quảng Nam cho rằng, ứng dụng máy dò ngang nói riêng, các thiết bị kỹ thuật hiện đại nói chung giúp quá trình đánh bắt hải sản của ngư dân không chỉ tăng sản lượng mà còn giảm được chi phí, lợi nhuận nâng lên. Ngành khuyến nông đã huy động các nguồn lực của tỉnh và Trung ương để hỗ trợ 50% kinh phí, triển khai các mô hình ứng dụng máy dò ngang giúp ngư dân, đạt kết quả khá tốt. Tuy nhiên, rất khó nhân rộng trên phạm vi trên toàn tỉnh bởi các chủ tàu ỷ lại hỗ trợ của Nhà nước hoặc không đủ vốn để tự đầu tư.
Theo Chi cục Thủy sản Quảng Nam, sản lượng khai thác hải sản của ngư dân trên địa bàn tỉnh giảm dần qua từng năm, từ 90 nghìn tấn, xuống còn 85 nghìn tấn, 80 nghìn tấn và 75 nghìn tấn trong lần lượt các năm 2015, 2016, 2017, 2018. “Không lo sản lượng hải sản giảm. Giảm nhưng với các loại hải sản quý hiếm thu được thì giá trị kinh tế rất cao, điều đó mới quan trọng. Giảm sản lượng hải sản thu được từ nghề cá ven bờ là rất cần thiết, đó là nội dung quan trọng trong tái cơ cấu nghề cá Quảng Nam” – bà Phạm Thị Hoàng Tâm – Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản Quảng Nam nói.
Lo với tàu vỏ thép
Rất đáng lo ngại khi hàng loạt tàu vỏ thép trang bị công nghệ, máy móc, thiết bị, ngư lưới cụ, tời kéo lưới hiện đại nằm bờ dài ngày trong thời gian qua. Trong đó, đáng chú ý là sự bế tắc của nghề lưới rê hỗn hợp. Nghề này hiện đại đến mức, vàn lưới dài đến 18km, mắt lưới rộng gần 20cm, kỳ vọng thu được cá thu cỡ lớn để xuất khẩu, nhưng thực tế chỉ đánh bắt được một ít cá nhám, cá đuối. Một số ngân hàng thương mại cho ngư dân vay vốn đóng tàu vỏ thép theo nghề lưới rê hỗn hợp đang tính toán bán các tàu này để thu nợ vì nợ xấu quá lớn, ngư dân không kham nổi, nhất là trong bối cảnh các chủ tàu đã năm lần bảy lượt chuyển nghề, kiêm nghề để rồi… nằm bờ.
Theo Sở NN&PTNT, trong số 46 tàu cá đóng mới, nâng cấp (theo Nghị định 67 của Chính phủ về một số chính sách phát triển thủy sản) đã đi vào sản xuất, mới chỉ có khoảng 15% là hoạt động có lãi. Sơ bộ có thể xác định các nguyên nhân là: nguồn lợi hải sản không được dồi dào như những năm trước; giá hải sản thấp bất thường, doanh thu kém hơn trước đây. Việc sử dụng các công năng hiện đại của tàu cá vỏ thép từ tời thu lưới, máy định dạng, định vị, các trang thiết bị hàng hải khác rất bất cập do nhân lực yếu kém, chưa được đào tạo hoặc ngành chức năng mở lớp đào tạo nhưng ngư dân không theo học. Đến nay, việc “gỡ rối” về vận hành các máy móc, thiết bị, công nghệ vẫn chỉ là… ngõ cụt.
Sở NN&PTNT đã tham mưu UBND tỉnh phê duyệt kế hoạch tổ chức 15 lớp đào tạo với quy mô 35 học viên/lớp về nghiệp vụ vận hành tàu vỏ thép, hướng dẫn kỹ thuật khai thác, bảo quản sản phẩm theo công nghệ mới. Từ năm 2017 đến nay, chỉ có 4 lớp được tổ chức tại các huyện Thăng Bình, Núi Thành với 147 thuyền viên tham gia. “Đặc thù nghề biển là bám biển quanh năm nên ngư dân hiếm có thời gian theo học các lớp đào tạo thuyền trưởng, máy trưởng. Tuy nhiên, cũng có nguyên nhân là ngư dân ngại đến lớp vì không ham học hỏi cái mới” – ông Trần Văn Việt – Trưởng phòng Quản lý tàu cá (Chi cục Thủy sản Quảng Nam) cho biết.
CẦN SỰ VÀO CUỘC ĐỒNG BỘ
Hiện hầu hết chủ tàu cá trong tỉnh bảo quản hải sản sau khai thác bằng hầm bảo quản truyền thống. Nhiệt độ trong hầm bảo quản dao động ở mức trên dưới 5°C, thời gian bảo quản thường không quá 10 ngày. Đá sử dụng hầu hết là đá xay, chất lượng vệ sinh không đạt, độ lạnh chưa sâu. Trong khi đó, mỗi chuyến khai thác hải sản xa bờ có thời gian 15 – 20 ngày dẫn đến trữ đá không đủ, da cá bị bóc vẩy, vi khuẩn có điều kiện xâm nhập vào thịt cá. Giá trị hải sản sau khai thác vì thế bị giảm sút. Bởi vậy, hầu hết hải sản được sử dụng ở thị trường nội địa, không đáp ứng được các tiêu chuẩn khắt khe về an toàn thực phẩm để xuất khẩu.
Nhận thấy được điểm yếu của cách bảo quản hải sản truyền thống, một số ngư dân có tiềm lực tài chính đã đầu tư hầm bảo quản hiện đại bằng vật liệu PU để nâng cao giá trị hải sản sau khai thác. Một trong số đó là ngư dân Võ Văn Xuân (thôn Phú Tân, xã Tam Xuân 1, Núi Thành) – chủ tàu cá QNa-90497 có công suất 450CV hành nghề hậu cần trên biển. Ông Xuân cho biết: “Tàu cá của tôi liên tục có mặt trên các vùng biển để mua hải sản ngư dân khai thác được sau đó chở về bờ bán cho tư thương. Từ khi sử dụng hầm bảo quản bằng vật liệu PU, giá trị hải sản tăng thêm 20%, giá trị kinh tế tăng thêm 1/5 lần so với trước đây”.
Theo Trung tâm Khuyến nông Quảng Nam, bảo quản hải sản sau khai thác bất cập ở chỗ ngư dân không đủ vốn huy động để tự đóng được hầm bảo quản hiện đại. Mô hình khuyến ngư bằng ngân sách của tỉnh, Trung ương hỗ trợ ngư dân áp dụng công nghệ bảo quản hải sản tiến bộ chỉ dừng lại sau khi nghiệm thu, bàn giao chứ hiếm khi được nhân rộng. Bởi vậy, để có thể ứng dụng công nghệ bảo quản hải sản bằng vật liệu PU, ngư dân phải tích cóp, dành dụm để huy động vốn cộng với cơ chế hỗ trợ của Nhà nước. Có như vậy mới giảm tổn thất hải sản sau khai thác, kéo dài thời gian bảo quản, giữ chất lượng hải sản để đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, nâng cao giá trị kinh tế.
Theo ông Ngô Tấn – Phó Giám đốc Sở NN&PTNT, ngành thủy sản tỉnh đã điều chỉnh lại quy hoạch phát triển thủy sản nói chung, nghề khai thác hải sản nói riêng theo hướng nâng cao giá trị sản phẩm thu được, giảm chi phí sản xuất, đem lại giá trị kinh tế cao sau chuyến biển. UBND tỉnh đã có cơ chế hỗ trợ để ngư dân đầu tư trang thiết bị bảo quản sản phẩm hiện đại sau khi khai thác được, ứng dụng máy móc, thiết bị hiện đại phục vụ nghề cá. Theo đó, khuyến khích ngư dân đầu tư hầm bảo quản hải sản bằng vật liệu PU, sử dụng điện mặt trời, sử dụng đèn led. Tuy nhiên, vướng mắc ở chỗ ngư dân hoặc chưa nhận thấy điều đó cấp thiết hoặc nguồn lực hạn hẹp, chưa áp dụng được nên giá trị kinh tế họ thu được sau mỗi chuyến biển đạt thấp.
Ông Kim Văn Tiêu – Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cho rằng, trong những năm qua, ngành thủy sản rất quan tâm xây dựng các mô hình khuyến ngư thiết thực. Rõ ràng ngư dân khai thác được hải sản thì phải bảo quản tốt để tăng lợi nhuận. Tương tự, các mô hình sử dụng đèn led, điện mặt trời đều cho thấy hiệu quả thiết yếu, ngư dân cần học hỏi, tiếp cận.
“Điều tối cần với các mô hình khuyến ngư thiết thực là giúp ngư dân tiếp cận bằng cách thuận lợi nhất. Khuyến ngư mới chỉ là cách tiếp cận ban đầu, muốn phát triển nghề cá bền vững thì phải có tầm, có định hướng dài hạn và cần sự vào cuộc đồng bộ, chặt chẽ của ngành thủy sản, các địa phương, nhất là ngư dân – chủ thể trực tiếp sản xuất nghề cá. Không thể không đổi mới vì đó là sống còn, nghề cá cần tăng giá trị để phát triển” – ông Kim Văn Tiêu nói.
ỨNG DỤNG THIẾT BỊ LIÊN LẠC HIỆN ĐẠI
Các thiết bị liên lạc hiện đại phục vụ nghề cá đã phát huy hiệu quả tối ưu trong thời gian qua.
Biển cả thất thường, thời tiết thay đổi đột ngột, những chuyến khai thác hải sản đối diện với rủi ro lớn nên hầu hết ngư dân đã trang bị các thiết bị liên lạc hiện đại trên tàu cá. Nhắc lại sự cố đối với tàu cá QNa-90099 hồi năm trước, ngư dân Phan Văn Thành (thôn Đông An, xã Tam Giang, Núi Thành) xúc động: “May nhờ các tàu cá cùng ngư trường đến ứng cứu, lai dắt về bờ. Lúc đó, gió to, sóng dữ dội lắm, tàu cá bị chết máy, trôi dạt trên biển. Tôi và 44 bạn biển rất lo lắng liền dùng máy liên lạc tầm ngắn hiện đại kết nối với các tàu cá cùng ngư trường và các ngư dân đã không ngại thời tiết xấu đến ứng cứu, lai dắt về bờ an toàn”.
Máy Movimar hiện đại cần thiết để phát triển nghề cá bền vững. Ảnh: QUANG VIỆT
Cùng với máy liên lạc tầm ngắn, các chủ tàu cũng đã trang bị máy liên lạc hiện đại tầm xa, máy Icom, máy liên lạc HF có thiết bị định vị để liên lạc về bờ khi cần thiết. Theo bà Phạm Thị Hoàng Tâm – Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản tỉnh, nhờ các thiết bị liên lạc hiện đại, nhiều tàu cá gặp nạn đã tai qua nạn khỏi trong điều kiện sóng gió giật mạnh khi liên lạc và tàu cá cùng ngư trường hoặc các tàu kiểm ngư, tàu cứu hộ, cứu nạn của các lực lượng chức năng nhận được tín hiệu đến cứu kịp thời.
“Hệ thống trạm bờ là máy VX 1700 được bố trí ở Chi cục Thủy sản luôn hoạt động 24/24 giờ để tiếp nhận các thông tin liên lạc của các tàu cá đang hoạt động trên biển, nhất là các vùng biển xa để khẩn trương hướng dẫn họ xoay xở trong những điều kiện nguy hiểm như dông lốc, gió xoáy, sóng mạnh. Ngoài 1 máy hiện có, chúng tôi mới đầu tư thêm 1 máy mới để giúp ngư dân ứng phó với các sự cố” – bà Tâm nói.
Hiện 52 tàu cá có chiều dài từ 24m trở lên của ngư dân Quảng Nam đều đã được ngành chức năng cấp miễn phí máy Movimar để lắp đặt, đáp ứng yêu cầu của Ủy ban châu Âu về khuyến cáo hoàn thiện trang bị máy liên lạc hiện đại trên tàu cá sản xuất ở các ngư trường Hoàng Sa, Trường Sa để có thể gỡ “thẻ vàng” thủy sản trong thời gian đến. Máy Movimar là thiết bị giám sát hành trình của tàu cá, khi vận hành, được nối với máy chủ, Tổng cục Thủy sản (Bộ NN&PTNT) sẽ biết được vị trí hoạt động của tàu cá, thuận lợi cho quản lý tàu cá. Qua máy Movimar, ngành chức năng sẽ kiểm soát hành trình, nhắc nhở ngư dân không đến vùng biển nước ngoài để khai thác hải sản.
Thiết bị hiện đại này giúp ngư dân tiếp nhận thường xuyên các bản tin dự báo thời tiết, để điều tàu về bờ hay neo đậu ở các khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá được đầu tư ở vùng biển Trường Sa. Nó cũng giúp ngư dân liên lạc với các tàu cùng ngư trường, các ngành chức năng trên biển để có thể được tiếp sức, giúp đỡ khi tàu cá không may bị tàu nước ngoài tấn công, cướp bóc cũng như phối hợp đối phó với các tình huống khẩn cấp do thiên tai.
“Hoàn thiện hệ thống liên lạc trên tàu cá và trạm bờ qua đầu tư, trang bị các thiết bị liên lạc thông minh, hiện đại là bước tiến lớn của nghề cá Quảng Nam. Rất kỳ vọng các thiết bị liên lạc hiện đại là cầu nối của ngư dân và các ngành chức năng để sản xuất nghề cá hiệu quả hơn và góp phần cùng cả nước gỡ “thẻ vàng” thủy sản trong thời gian ngắn nhất có thể” – Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lê Trí Thanh nói.
CHUYÊN NGHIỆP HÓA NGHỀ CÁ
Chỉ một mẻ lưới, ngư dân đánh bắt được hơn 30 tấn hải sản là thành quả lớn. Đây là trường hợp điển hình minh chứng cho việc chuyên nghiệp hóa nghề cá sẽ thu được hiệu quả cao.
Nguyễn Thanh Thành (thôn Sâm Linh Đông, xã Tam Quang, Núi Thành) mặc dù tuổi đời còn trẻ nhưng là ngư dân kỳ cựu trong nghề khai thác hải sản. Anh đã được các ngành chức năng của tỉnh, huyện vinh danh là ngư dân tiêu biểu. Nhiều lần phát hiện luồng cá lớn, dự tính lên đến hàng chục tấn nhưng không thể vây bắt hết, anh Thành thất vọng với chính mình và đặt ra mục tiêu phải đóng được tàu công suất lớn, trang bị ngư lưới cụ hiện đại, hệ thống tời kéo lưới thủy lực tiên tiến để thành công với nghề.
Qua tích cóp vốn liếng, mượn của người thân, vay của ngân hàng, anh Thành đã sở hữu tàu cá QNa-91636 có chiều dài 24m, công suất máy chính 720CV, trị giá 5,77 tỷ đồng. Trên tàu cá của mình, anh Thành trang bị đầy đủ các máy móc, thiết bị hiện đại gồm máy dò ngang, máy định vị, máy định dạng, vàn lưới vây dài xấp xỉ 5km, 2 tời kéo lưới thủy lực hiện đại, 8 hầm bảo quản cá bằng vật liệu P.U… “Tôi thu được mẻ cá “khủng” lên đến 32 tấn cá ngừ sọc dưa, cá nục chuối. Khi về bờ, thân cá bóng mảy, được bán với giá cao, doanh thu kỷ lục. Đúng là mẻ cá… nhớ đời” – anh Thành nói.
Theo anh Thành, mẻ cá lớn được đánh bắt nhờ tổng hợp của nhiều yếu tố. Tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong nghề, anh Thành dự đoán tọa độ có thể thu được sản lượng hải sản lớn và điều tàu tới vùng biển Hoàng Sa. Qua máy dò ngang hiện đại, anh Thành sung sướng phát hiện đàn cá lớn hoạt động. Các công đoạn vây bắt cá được thống nhất từ thuyền trưởng đến thuyền viên, các lao động phụ trợ.
“Tôi cho tàu tiến lại gần, tiếp cận phù hợp, tránh làm cá hoảng sợ mà lặn xuống sâu hoặc trốn đi nơi khác. Sau khi phán đoán nhanh tình huống, tôi thả lưới chắn trước đàn cá và bắt đầu vòng vây lưới, khép chặt dần luồng cá lớn. Các công đoạn thu lưới, thu cá, đưa cá lên tàu diễn ra đúng kịch bản nhờ vàn lưới rất dài, tời kéo lưới rất lực” – anh Thành kể.
Thu được nhiều thành quả trong nghề khai thác hải sản, anh Thành đúc kết kinh nghiệm: “Điều cần nhất với nghề cá là chuyên nghiệp, muốn vậy phải đầu tư hiện đại. Tàu cá phải vững chãi để đương đầu với sóng to, gió lớn. Ngư lưới cụ phải phát huy hết công năng đánh bắt hải sản, dài, rộng, vây bắt nhanh. Tời kéo cá thủy lực là rất cần thiết chứ tời cơ ngư dân mình áp dụng lâu nay bị động, nhiều khiếm khuyết. Khi đã có được sản lượng hải sản lớn thì cần bảo quản bài bản để nâng cao giá trị hải sản sau khai thác, thu được giá trị kinh tế lớn sau mỗi chuyến biển” – anh nói.