(TSVN) – Việc ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất giống thủy sản ở Nam Định trong những năm qua đã đạt được một số kết quả nhất định. Nhờ đó chất lượng sản phẩm được nâng cao, đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe của thị trường.
Hiện trên địa bàn tỉnh Nam Định có 137 cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống thủy sản; trong đó có 22 cơ sở chủ yếu sản xuất giống nước ngọt như các loại cá truyền thống trắm, chép, mè, trôi; 115 cơ sở sản xuất giống thủy sản mặn lợ như tôm, nhuyễn thể, cá. Hiện nhiều cơ sở, trung tâm sản xuất giống thủy sản đã tiếp cận, nghiên cứu và hoàn thiện quy trình sản xuất các đối tượng có giá trị kinh tế cao như lươn, cá chạch đồng, ếch Thái Lan, ốc nhồi, ngao, tôm sú, cua biển, cá bống bớp… Theo đánh giá của Chi cục Thủy sản Nam Định, các cơ sở đã đáp ứng được trên 70% nhu cầu giống thả nuôi trong tỉnh.
Để chủ động về số lượng, quản lý chặt chẽ về chất lượng con giống, những năm qua, Nam Định đã chỉ đạo các ngành liên quan và các địa phương quan tâm, hỗ trợ, thu hút đầu tư vào sản xuất, ương dưỡng giống thủy sản. Nổi bật là dự án “Xây dựng mô hình ứng dụng công nghệ sản xuất giống nhân tạo và nuôi hàu đơn Thái Bình Dương tại tỉnh Nam Định” ở huyện Giao Thủy của Công ty TNHH Thủy sản Minh Phú (xã Bạch Long), với nguồn kinh phí hỗ trợ 3 tỷ đồng. Trong quá trình thực hiện, Viện Nghiên cứu NTTS I đã hỗ trợ cán bộ kỹ thuật của Công ty các kỹ thuật, công nghệ sản xuất hàu giống từ khâu xây dựng, vận hành hệ thống, nuôi tảo, tuyển chọn hàu bố mẹ, nuôi vỗ thành thục, sinh sản nhân tạo, ấp nở trứng, ương hàu giống, tạo hàu rời, ương spat (ấu trùng bám) hàu rời và nuôi thương phẩm. Sau gần 2 năm triển khai, Công ty đã làm chủ công nghệ sản xuất hàu rời, tạo và ương nuôi 10 triệu con giống, xây dựng thành công mô hình công nghệ nuôi hàu rời thương phẩm. Hay như Công ty TNHH nuôi trồng, chế biến thủy sản Liên Phong (xã Giao Phong, huyện Giao Thủy) thực hiện dự án “Áp dụng khoa học và công nghệ trong sản xuất, nuôi trồng giống sò huyết”, được Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh hỗ trợ xây dựng thành công quy trình sản xuất giống sò huyết nhân tạo. Thành công của dự án cũng mở ra triển vọng phát triển nghề nuôi sò huyết ổn định, bền vững, đa dạng giống loài có giá trị trong lĩnh vực thủy sản, mang lại hiệu quả kinh tế cho người dân.
Mặc dù có nhiều thành tựu đáng ghi nhận trong thời gian gần đây, tuy nhiên, công tác sản xuất giống thủy sản của tỉnh vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Điển hình như do đặc thù về khí hậu thời tiết có mùa đông lạnh, nên chi phí phục vụ sản xuất, ương dưỡng giống thủy sản tăng cao, ảnh hưởng đến mùa vụ sản xuất và giảm sức cạnh tranh. Chất lượng đàn cá bố mẹ nước ngọt hạn chế do đã sử dụng quá lâu. Một số đối tượng, đặc biệt là TTCT muốn làm chủ công nghệ phải có sự đầu tư lớn nên hiện vẫn chưa có cơ sở sản xuất thành công. Chất lượng sản xuất giống ngao bố mẹ có hiện tượng cận huyết nên đàn giống đang dần bị suy thoái.
Để khắc phục những tồn tại này, thời gian tới, ngành nông nghiệp địa phương sẽ tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, hướng dẫn cho các tổ chức, cá nhân sản xuất ương dưỡng, sử dụng con giống thủy sản theo đúng quy định hiện hành. Tiếp tục tham mưu tỉnh điều chỉnh quy hoạch, tạo quỹ đất, mặt nước ổn định để thu hút doanh nghiệp, người dân đầu tư sản xuất, xây dựng các cơ sở ương dưỡng giống theo chuỗi liên kết, đảm bảo con giống rõ nguồn gốc. Hỗ trợ, tạo điều kiện cho các cơ sở tiếp cận khoa học công nghệ và sản xuất các đối tượng nuôi phù hợp với điều kiện tự nhiên của địa phương có giá trị kinh tế cao, tăng lợi nhuận cho người sản xuất.
Nguyễn An