(TSVN) – Khí độc trong ao nuôi tôm luôn là vấn đề gây khó khăn không chỉ người nuôi mà còn với các nhà nghiên cứu khoa học. Làm thế nào để giải quyết vấn đề này, nhất là trong nuôi tôm siêu thâm canh luôn được người dân quan tâm.
Thông thường, chỉ một thời gian ngắn sau khi thả tôm, lượng khí độc NH3 và NO2 phát sinh liên tục và đạt mức gây độc cho tôm nuôi nhanh chóng. Bình thường, trong nước vẫn tồn tại NO2 nhưng ở mức cho phép sẽ không ảnh hưởng gì đến tôm. Nhưng khi NO2 ở mức từ 1 mg/l trở lên, chúng ảnh hưởng ít nhiều đến các hoạt động trao đổi chất và chuyển hóa.
– Ao nuôi thâm canh với mật độ cao, lượng thức ăn giàu dinh dưỡng được bổ sung vào ao nuôi mỗi ngày là rất lớn. Do vậy, các chất hữu cơ tích tụ phân hủy yếm khí (thiếu ôxy) dưới đáy ao thì sẽ phát sinh khí độc NH3, NO2, H2S…
– Total amonium nitrogen (TAN) trong nước tồn tại ở 2 dạng NH4+/NH3 chuyển đổi động qua lại lẫn nhau tùy theo pH nước. Quá trình Nitrate hóa xảy ra từ TAN (NH3 chuyển sang NO3–) trong môi trường hiếu khí và do 2 nhóm vi khuẩn tự dưỡng: Nitrosomonas (ôxy hóa NH3 thành NO2-) và Nitrobacter (ôxy hóa NO2– thành NO3–). pH tăng cũng sẽ dẫn đến NH3 không phân cực (độc) trong TAN tăng. Từ đó gây hại cho ao nuôi.
– NO2 kết hợp với Hemocyanin trong máu tôm làm mất khả năng vận chuyển ôxy trong máu khiến tôm nuôi bị ngạt. Khi đó tôm sẽ yếu, dễ mắc bệnh hoặc chết khi sốc môi trường.
– Gây rối loạn cân bằng áp suất thẩm thấu (ở những ao nuôi có độ mặn thấp) do Nitrit cạnh tranh với ion Cl–. Tôm bị nhiễm Nitrit có các dấu hiệu như: lột xác không cứng vỏ, tôm chậm lớn, bị tổn thương mang và phù thủng cơ. Hàm lượng Nitrit trong ao quá cao, tôm có thể chết hàng loạt hoặc rải rác vào buổi sáng sớm và chiều tối.
– Đối với tôm sú thường tập trung tại khu vực đáy ao nên rất dễ bị ảnh hưởng từ khí độc. Tôm yếu, giảm ăn hoặc bỏ ăn. Dễ nhiễm bệnh hoặc thậm chí chết do khí độc NO2.
– Đối với TTCT, chúng thường hoạt động trong tầng nước nên cũng ít bị ảnh hưởng. Tuy nhiên khi TTCT lột xác hoặc quá trình tìm thức ăn chúng cũng sẽ tiếp xúc với đáy ao và bị ảnh hưởng của khí độc làm suy yếu.
– Khi NO2 hiện diện trong nước đến nồng độ cao sẽ khiến tôm bị lờ đờ, sốc, đỏ thân, chậm lớn, tấp mé, bỏ ăn… và nếu không xử lý kịp thời tôm sẽ dễ nhiễm bệnh, nổi đầu và chết.
Kết quả kiểm tra khí độc mẫu nước ao nuôi (a.2, 3, 6, 7, 8, 9, 10 – Mẫu nước ao sử dụng sản phẩm Nitri-Remover. b.1, 4, 5, 6 – Mẫu nước ao đối chứng (không sử dụng)
– Thay nước mỗi ngày: Giải pháp này không khả thi trong ao nuôi TTCT, vì thay nước dẫn đến biến động chất lượng nước lớn, trong khi tôm cần sự ổn định môi trường cao của tảo, kiềm và pH…
– Sử dụng Yucca: Yucca chỉ hấp thụ được khí độc NH3, không hấp thụ NO2 và còn đẩy nhanh quá trình nitrat hóa.
– Bổ sung chế phẩm vi sinh: Nitrosomonas, nitrosococus và nitrobacter: nhóm vi khuẩn này cần có những đều kiện đặc biệt để phát triển. Bổ sung đều đặn và liên tục trong suốt quá trình nuôi kết hợp với việc quản lý chất lượng nước, thức ăn chặt chẽ có thể kiểm soát được khí độc trong ao nuôi.
Khí độc NO2 giảm nhanh từ trên 5.0 xuống còn 0.5 (mg/l)
Nitri-Remover 113.5 g/2.000 m3 nước ao
Hiện nay, các nhà khoa học đã tìm ra một chủng vi sinh cực hiếm thuộc nhóm Bacillus có khả năng xử lý NH3, NO2 trong ao tôm một cách nhanh chóng và hiệu lực kéo dài. Khi nghiên cứu tại Đông Nam Á, hoạt tính của nhóm vi khuẩn này có tỷ lệ loại bỏ Nitrit rất cao (hơn 85%) sau 24h khi nhiệt độ dao động từ 25°C đến 40°C và pH khác nhau trong khoảng 7 và 9 cho thấy chúng có khả năng thích ứng tuyệt vời với môi trường.
Hiện nay, Thái Nam Việt đã phát triển một dòng sản phẩm vi sinh giải quyết triệt để và hiệu lực kéo dài đối với vấn đề khí độc có thành phần từ chủng vi sinh trên.
Thái Nam Việt