Rà soát triển khai Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam

Chưa có đánh giá về bài viết

(TSVN) – Sáng 18/11, tại Hà Nội, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Thị Phương Hoa chủ trì cuộc làm việc với Cục Biển và Hải đảo Việt Nam nhằm rà soát tiến độ thực hiện Nghị quyết 26/NQ-CP về Kế hoạch triển khai Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045.

Nhiều kết quả nổi bật

Báo cáo tại cuộc họp, Cục trưởng Cục Biển và Hải đảo Việt Nam Nguyễn Đức Toàn cho biết việc triển khai Nghị quyết 26/NQ-CP thời gian qua đạt nhiều chuyển biến tích cực ở cả cấp trung ương và địa phương. Theo kế hoạch, 12 bộ và 28 địa phương ven biển (nay còn 21 địa phương) được giao triển khai 51 nhiệm vụ, dự án, trong đó Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì 12 nhiệm vụ. Phần lớn các dự án đã và đang được triển khai, một số nhiệm vụ được điều chỉnh hoặc tích hợp vào các kế hoạch phù hợp hơn.

Trong đó, quản trị biển và đại dương là lĩnh vực có bước tiến quan trọng, đặc biệt là lần đầu tiên Việt Nam lập và phê duyệt Quy hoạch không gian biển quốc gia – công cụ nền tảng định hướng khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên biển. Hệ thống pháp luật về lấn biển, giao khu vực biển từng bước được hoàn thiện; bộ chỉ tiêu thống kê biển và bộ chỉ tiêu đánh giá quốc gia biển mạnh cũng đã được ban hành, giúp chuẩn hóa việc theo dõi, đánh giá.

Hoạt động truyền thông về biển, đảo được đẩy mạnh hơn, đa dạng hóa hình thức, góp phần nâng cao nhận thức cộng đồng về chủ quyền, tài nguyên và môi trường biển.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Thị Phương Hoa chủ trì cuộc làm việc với Cục Biển và Hải đảo Việt Nam. Ảnh: Trường Giang.

Về kinh tế, báo cáo cho thấy nhiều ngành kinh tế biển và ven biển tăng trưởng nhanh, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế – xã hội. Dịch vụ hàng hải, logistics, hệ thống cảng biển, công nghiệp đóng tàu, khai thác dầu khí, nuôi biển công nghệ cao và du lịch biển đều ghi nhận bước tiến đáng kể. Hạ tầng giao thông kết nối liên vùng được đầu tư đồng bộ, tạo động lực hình thành các trung tâm công nghiệp – logistics ven biển.

Đáng chú ý, năng lượng tái tạo – đặc biệt là điện gió ngoài khơi – cùng các ngành kinh tế biển mới đang nổi lên như các lĩnh vực thúc đẩy kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn.

Đời sống người dân vùng biển tiếp tục cải thiện, đặc biệt trong việc tiếp cận điện lưới, nước sạch và hạ tầng thiết yếu. Trong khi đó, công tác bảo vệ môi trường biển đã có nhiều chuyển biến, với việc phục hồi nhiều hệ sinh thái biển, ven biển và hải đảo; bản đồ hải đồ và địa hình đáy biển được hoàn thiện ở phần lớn diện tích vùng biển phục vụ quản lý và nghiên cứu.

Hợp tác quốc tế về khoa học – công nghệ biển mở rộng mạnh mẽ với Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Canada và nhiều tổ chức quốc tế. Các nghiên cứu nền tảng về hệ sinh thái, địa chất, thiên tai và biến đổi khí hậu từng bước được bổ sung, phục vụ hoạch định chính sách dài hạn.

Đến nay, Việt Nam đã thành lập 12 khu bảo tồn biển với tổng diện tích hơn 206.000 ha (trong đó có 185.000 ha mặt biển); đồng thời cơ bản hoàn thành bản đồ hải lý tỷ lệ 1:200.000 cho 82% diện tích vùng biển.

Một số điểm nghẽn

Bên cạnh kết quả đạt được, báo cáo cũng chỉ ra những hạn chế, bất cập còn tồn tại. Trong đó, đáng chú ý nhất là thiếu cơ chế đột phá để thu hút nguồn lực tư nhân, trong khi vốn đầu tư công cho các chương trình biển còn hạn chế. Nhiều quy định pháp luật chồng chéo, gây khó khăn trong phối hợp thực thi giữa các bộ, ngành và địa phương.

Kinh tế biển phát triển nhanh nhưng chưa đồng bộ, còn phân tán; hệ thống logistics và kinh tế cảng biển chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu cạnh tranh khu vực. Một số khu công nghiệp ven biển tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm nếu không được kiểm soát tốt.

Ảnh: ST

Hoạt động lấn biển gia tăng nhưng chưa được đánh giá tổng thể, dẫn đến nguy cơ ảnh hưởng tới hệ sinh thái và sự ổn định đường bờ. Công tác quan trắc môi trường biển mỏng, thiếu thiết bị, trong khi điều tra cơ bản biển – nhất là vùng biển sâu – còn hạn chế do thiếu tàu chuyên dụng và trang thiết bị hiện đại.

Từ thực tiễn triển khai, Cục trưởng Nguyễn Đức Toàn nêu 6 nhóm bài học kinh nghiệm, trong đó nhấn mạnh yêu cầu tiếp tục quán triệt tinh thần Nghị quyết 36-NQ/TW và Nghị quyết 26/NQ-CP; hoàn thiện thể chế; tăng cường điều phối liên ngành, liên vùng; đẩy mạnh chuyển đổi số trong quản lý biển; đầu tư hạ tầng chiến lược; phát triển nguồn nhân lực biển chất lượng cao; mở rộng hợp tác quốc tế. Đáng chú ý, Cục đề xuất hình thành Trung tâm quốc gia về giám sát, điều tra cơ bản và nghiên cứu khoa học biển.

Rà soát toàn diện, hướng tới xây dựng Luật Môi trường biển và hải đảo

Kết luận cuộc họp, Thứ trưởng Nguyễn Thị Phương Hoa đề nghị Cục Biển và Hải đảo Việt Nam rà soát toàn diện việc thực hiện các nhiệm vụ theo Nghị quyết 26/NQ-CP, báo cáo đầy đủ tiến độ và đề xuất giải pháp triển khai trong thời gian tới.

Thứ trưởng lưu ý việc quan tâm tới đời sống người dân ven biển, nhất là những hộ chịu ảnh hưởng bởi các dự án phát triển kinh tế biển, nhằm bảo đảm hài hòa lợi ích giữa phát triển và an sinh.

Thứ trưởng cũng yêu cầu Cục sớm nghiên cứu tổng kết Nghị quyết 36-NQ/TW để phục vụ xây dựng Luật Môi trường biển và hải đảo trong thời gian tới. Quá trình này phải chú trọng đánh giá lợi thế từng địa phương có biển, tham khảo kinh nghiệm quản lý biển quốc tế, tiếp cận các mô hình quản trị tiên tiến nhưng đảm bảo phù hợp thực tiễn Việt Nam.

Thùy Khánh

Bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Hãy là người đầu tiên bình luận trong bài
error: Content is protected !!