Sự tương tác giữa virus gây bệnh đốm trắng và hoại tử cơ

Chưa có đánh giá về bài viết

Đốm trắng có thể được coi là một trong những bệnh chính do virus mà gây ảnh hưởng lớn đến nghề nuôi tôm trên toàn thế giới trong những năm gần đây. Bệnh này do virus hội chứng đốm trắng gây ra, một loại virus có kích thước bộ gen khoảng 300 kbp. Bên cạnh […]

Đốm trắng có thể được coi là một trong những bệnh chính do virus mà gây ảnh hưởng lớn đến nghề nuôi tôm trên toàn thế giới trong những năm gần đây. Bệnh này do virus hội chứng đốm trắng gây ra, một loại virus có kích thước bộ gen khoảng 300 kbp. Bên cạnh đó, một bệnh nguy hiểm do virus khác là hoại tử cơ truyền nhiễm (IMN), do virus hoại tử cơ (IMNV) gây ra. Mặc dù IMNV là một loại virus đặc hữu chỉ xuất hiện ở một số quốc gia nhất định, nhưng bệnh này gây thiệt hại kinh tế đáng kể cho ngành tôm do có thể gây chết tôm ở tỷ lệ cao (30-80%). Bộ gen IMNV có chiều dài đầy đủ có khoảng 8,2 kbp và được tổ chức dưới dạng DSRNA không phân đoạn. 

Hoại tử cơ và đốm trắng là hai bệnh có thể gây thiệt hại lớn cho ngành tôm. Ảnh: ST

Sự đồng nhiễm giữa virus – virus, virus – vi khuẩn và virus – nấm thường được báo cáo do việc mở rộng hệ thống nuôi tôm và sự lây lan của dịch bệnh. Nơi ký sinh của virus có thể được quan sát thấy khi tôm tiếp xúc với virus và đạt được khả năng chống chịu nhất định đối với các đợt nhiễm tiếp theo. Khả năng chịu đựng này không ngăn ngừa được đợt nhiễm kế phát, nhưng có thể giảm 

thiểu mức độ nghiêm trọng và ngăn ngừa tỷ lệ chết ở tôm. Mặt khác, sự can thiệp của virus có thể xảy ra khi hai loại virus tương tác trực tiếp hoặc gián tiếp trong cùng một vật chủ, ảnh hưởng đến quá trình lây nhiễm do ít nhất một trong số các loại virus này gây ra. 

Phương pháp 

Tôm bị nhiễm IMNV và WSSV (~4 g) đã được nuôi thích nghi 4 ngày trong bể 500 L, sục khí liên tục và cho ăn 2 lần/ngày với 3,5% tổng sinh khối. Sau khi thích nghi, 75 cá thể tôm đồng nhiễm khỏe mạnh được phân vào 5 bể (~35L,15 ppm), mỗi bể có 15 cá thể. Tổng cộng có 60 cá thể tôm từ bốn bể đã được cảm nhiễm với WSSV, trong khi 15 con tôm từ bể thứ năm đóng vai trò là nhóm đối chứng. Nhóm đối chứng âm tính chỉ được sử dụng để theo dõi khả năng sống sót và không được thực hiện các thử nghiệm thêm. Những cá thể tôm trong thí nghiệm được loại bỏ ngay khi phát hiện. Tổng cộng có 18 cá thể tôm được thu thập tại ba thời điểm trong suốt 13 ngày thí nghiệm, vào lúc 0, 4 và 13 ngày sau khi nhiễm bệnh (dpi). Vào ngày 0, sáu con tôm được thu thập ngay trước khi tiêm, từ bể thích nghi, trước khi phân phối 75 cá thể vào bể nuôi. Vào ngày thứ 4, sáu cá thể khỏe mạnh được bắt ngẫu nhiên từ bốn bể thí nghiệm. Vào ngày 13, sáu cá thể còn lại trong nhóm thí nghiệm đã được thu thập. 

Tất cả cá thể tôm được thu thập để phân tích qPCR đều được mổ và tải lượng virus được phân tích riêng lẻ trong vỏ, cơ, mang, ruột, gan tụy, máu và trong một nhóm tất cả các mô. Các mô được giữ trong cồn 95% cho đến khi xử lý. 

Cảm nhiễm virus được thực hiện lây nhiễm cho mỗi cá thể tôm với liều 2,7 × 106 bản sao virus, chứa trong 100 μL chất cấy WSSV, bằng cách tiêm cơ. 15 cá thể tôm trong nhóm đối chứng được tiêm dung dịch muối 100 μL. Chất cấy WSSV được chuẩn bị theo các phương pháp trước đây. Các phân tích RT-qPCR và qPCR đã được thực hiện để xác minh sự hiện diện và ước tính tải lượng virus của WSSV, IMNV và IHHNV trong vật liệu cấy cuối cùng (WOAH, 2022). 

Kết quả 

Kết quả cho thấy tải lượng virus IMNV giảm sau cảm nhiễm WSSV. Ở mức 0 và 13 dpi, tải lượng virus của cả hai loại virus tương đương nhau. Tuy nhiên, ở mức 4 dpi, tải lượng virus WSSV đạt mức cao nhất, trong khi IMNV đạt mức thấp nhất. Trong tất cả các giai đoạn được phân tích, tải lượng virus của WSSV và IMNV cho thấy xu hướng trái ngược nhau, tăng hoặc giảm, cho đến khi ổn định trở lại (13 dpi). Ở mức 4 dpi, IMNV cho thấy tải lượng virus không thể phát hiện được trong ruột và trong nhóm tất cả các mô, cho thấy sự can thiệp mạnh mẽ giữa hai loại virus và ảnh hưởng mạnh hơn của hiện tượng này ở một số mô nhất định. 

Các cơ chế chính của sự can thiệp tiêu cực của virus là (1) phong tỏa và ức chế chức năng thụ thể tế bào, (2) ức chế các chức năng tế bào cần thiết cho sự nhân lên của một trong các loại virus và (3) kích hoạt các yếu tố chống virus tan máu (Escobedo-Bonilla, 2021 ; Yan và cộng sự, 2016). Trong trường hợp có sự can thiệp giữa WSSV và IMNV, các tác giả đưa ra giả thuyết rằng các virus này cạnh tranh với nhau chủ yếu để liên kết với các thụ thể tế bào. IMNV có thể đã giảm tải lượng virus vì nó đã bị cạn kiệt do khả năng liên kết của các thụ thể tế bào thấp hơn, ngăn cản sự xâm nhập và nhân lên của nó bên trong tế bào. Do đó, sự bội nhiễm WSSV có khả năng ngăn chặn các thụ thể mà IMNV có thể sử dụng để lây nhiễm vào các tế bào, vì vậy ngăn chặn sự tồn tại lâu dài của IMNV bên trong vật chủ, dẫn đến sự suy giảm tải lượng virus của nó. 

Hình 1. Tỷ lệ chết của tôm bị cảm nhiễm WSSV và nhóm đối chứng 

Một kết quả thú vị khác là, mặc dù tôm bị đồng nhiễm nhưng 14 con (93%) vẫn sống và khỏe mạnh trong nhóm đối chứng. Nhóm cảm nhiễm với WSSV lần lượt có tỷ lệ sống là ~20% (Hình 1). Kết quả cho thấy rằng trong quá trình đồng nhiễm tự nhiên, các virus có thể điều tiết hoặc cạnh tranh với nhau, giữ cho lượng virus của chúng không đổi và gây ra mức độ lây nhiễm không gây chết (Flegel, 2007). Tuy nhiên, việc tiếp xúc quá mức với một trong các loại virus dường như cản trở sự cân bằng của khả năng điều tiết này và gây ra tỷ lệ chết cao hơn. Trong thí nghiệm hiện tại, cá thể tôm sống sót dường như có thể thiết lập lại trạng thái thích nghi hoặc tiếp cận trạng thái đó sau đợt bội nhiễm. 

Lê Chinh

(Lược dịch)

Bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Hãy là người đầu tiên bình luận trong bài
error: Content is protected !!