Thúc đẩy kinh tế biển xanh vì một đại dương bền vững

Chưa có đánh giá về bài viết

(TSVN) – Tại Hội thảo chuyên đề do Đoàn giám sát của Quốc hội phối hợp cùng Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức sáng 30/11 tại Hải Phòng, các chuyên gia, nhà quản lý và doanh nghiệp đã đưa ra một số giải pháp chiến lược nhằm thúc đẩy kinh tế biển xanh, kinh tế tuần hoàn, củng cố hệ sinh thái biển và hiện đại hóa quản trị đại dương.

Hội thảo “Thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường trong phát triển bền vững kinh tế biển và kinh tế tuần hoàn” do Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan chủ trì, quy tụ lãnh đạo nhiều bộ, ngành, địa phương ven biển cùng đại diện các viện nghiên cứu, tập đoàn kinh tế lớn. Đây là diễn đàn quan trọng nhằm đánh giá việc thực thi chính sách, đồng thời đề xuất những động lực mới cho chiến lược phát triển kinh tế biển bền vững của Việt Nam.

Tại hội thảo, các chuyên gia một lần nữa khẳng định điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển là nền tảng không thể thiếu để xây dựng các quy hoạch, chiến lược và hành động thực thi trên thực địa.

Ông Trương Đức Trí, Phó Cục trưởng Cục Biển và Hải đảo Việt Nam cho biết, việc triển khai Chương trình điều tra cơ bản đến năm 2030 theo Quyết định 28/2020 đang tạo chuyển biến tích cực. Việt Nam sở hữu vùng biển rộng hơn 1 triệu km², gấp ba lần diện tích đất liền, với đường bờ biển dài 3.260 km – lợi thế lớn để xây dựng kinh tế biển mạnh.

Thời gian qua, các cơ quan chuyên môn đã thu thập khối lượng dữ liệu đáng kể: bản đồ địa hình đáy biển cho 182.000 km² ở tỷ lệ 1/50.000 và 12.500 km² ở tỷ lệ 1/25.000; điều tra địa chất – khoáng sản đạt gần 38% ở tỷ lệ 1/500.000. Trữ lượng cát biển ước đạt 500 tỉ m³, 62 vùng sa khoáng kim loại với 164 triệu tấn trữ lượng được phát hiện cùng 14 vùng khí hydrate, 6 vùng có triển vọng quặng vỏ sắt, mangan.

Bên cạnh đó, Việt Nam nằm trong nhóm 16 quốc gia có đa dạng sinh học biển cao nhất thế giới, sở hữu hệ thống rừng ngập mặn, cỏ biển và rạn san hô phân bố rộng khắp, đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ bờ và tạo sinh kế bền vững cho cộng đồng ven biển. Nhiều khu vực được đánh giá có tiềm năng điện gió ngoài khơi lớn, đặc biệt tại Vịnh Bắc Bộ, Nam Trung Bộ và Nam Bộ.

Tuy nhiên, ông Trí thẳng thắn nhìn nhận các hạn chế: nguồn lực tài chính hạn chế, công nghệ điều tra chưa đồng bộ, chuẩn kỹ thuật chưa thống nhất, hợp tác quốc tế chưa tương xứng. Thời gian tới, nhiệm vụ trọng tâm là đẩy mạnh điều tra biển sâu, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia thống nhất, ứng dụng công nghệ viễn thám, AI, mô hình hóa và số hóa dữ liệu.

Ở lĩnh vực thủy sản, đại diện Cục Thủy sản cho biết ngành đang thúc đẩy các mô hình nuôi biển công nghiệp theo Quyết định 1664, hướng đến mục tiêu đến năm 2030 sản lượng nuôi trồng đạt 7 triệu tấn, trong đó 1,45 triệu tấn đến từ nuôi biển.

Việt Nam có hơn 2.800 cơ sở chế biến thủy sản nhưng lượng phụ phẩm còn lớn và chưa được tận dụng hiệu quả. Một số nước đã phát triển mô hình nuôi kết hợp (IMTA), trong đó rong biển hấp thụ lượng lớn nitơ, phốt pho, góp phần giảm ô nhiễm vùng nuôi. Cục Thủy sản đề xuất ưu tiên phát triển IMTA, khuyến khích tận dụng phụ phẩm và tăng nghiên cứu hợp chất sinh học từ rong biển – một nguồn tài nguyên mới giàu tiềm năng.

Tại hội thảo, Quảng Ninh được nhắc đến như ví dụ điển hình. Ông Nguyễn Như Hạnh, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Quảng Ninh cho biết địa phương đã thay thế 6,85 triệu phao xốp bằng vật liệu thân thiện môi trường; trồng mới và phục hồi 1.290 ha rừng ngập mặn; triển khai mô hình phục hồi rạn san hô với tỷ lệ thành công trên 83%. Tỉnh đặt mục tiêu đến năm 2030 giảm 75% rác thải nhựa trên biển và hoàn thiện quy hoạch không gian biển, đảo.

PGS.TS Nguyễn Văn Quân, Phó Viện trưởng Viện Khoa học công nghệ Năng lượng và Môi trường cho rằng, Hải Phòng có nhiều cơ hội bứt phá nhờ các công nghệ biển hiện đại như robot lặn, cảm biến dưới nước, AI, viễn thám và điện gió ngoài khơi. Ông đề xuất hình thành trung tâm dữ liệu và giám sát biển, phát triển cảng xanh – cảng thông minh, tăng ứng dụng công nghệ sinh học biển và thành lập văn phòng điều phối Thập kỷ đại dương tại Hải Phòng.

Từ phía doanh nghiệp, bà Đỗ Thị Thu Phương (Tập đoàn Công nghiệp Năng lượng Quốc gia Việt Nam) kiến nghị bổ sung quy định môi trường đặc thù cho hoạt động dầu khí ngoài khơi, đồng thời hoàn thiện khung pháp lý cho các dự án năng lượng tái tạo và năng lượng mới.

“Không thể chấp nhận một đại dương bị tổn thương” – Thông điệp này được Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Lê Công Thành nhấn mạnh tại hội thảo. Theo Thứ trưởng, bảo vệ môi trường biển không chỉ là yêu cầu pháp lý mà còn là “kỷ luật quốc gia” và cam kết của Việt Nam trước cộng đồng quốc tế. Ông cho biết, Việt Nam là một trong những quốc gia ASEAN sớm đưa kinh tế tuần hoàn vào chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, song để chính sách đi vào cuộc sống cần tăng cường giám sát và xử lý vi phạm nghiêm minh.

Toàn cảnh Hội thảo. Ảnh: Khương Trung

Bộ Nông nghiệp và Môi trường đề xuất ba nhóm nhiệm vụ trọng tâm: Đưa bảo vệ môi trường biển trở thành trụ cột phát triển kinh tế biển, đồng thời xây dựng chương riêng về kinh tế tuần hoàn trong Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi. Lượng hóa kết quả, tránh khẩu hiệu; yêu cầu địa phương và doanh nghiệp báo cáo rõ ràng về lượng rác nhựa giảm, vật liệu tái chế, mô hình chuyển đổi. Xây dựng hệ thống dữ liệu biển thống nhất, quan trắc và cập nhật theo thời gian thực để phục vụ quản trị hiện đại.

Kết luận hội thảo, Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan nhấn mạnh, mọi nội dung thảo luận phải được chuyển hóa thành hành động cụ thể. Ông chỉ ra nhiều khoảng trống hiện nay như: nuôi biển công nghiệp thiếu cơ chế bắt buộc phân loại chất thải; thiếu mô hình kinh tế tuần hoàn trong thủy sản; quy hoạch không gian biển còn chung chung; hệ thống truy xuất nguồn gốc chưa đáp ứng yêu cầu quốc tế.

Phó Chủ tịch Quốc hội lưu ý, nếu không kiểm soát tốt môi trường từ sản xuất đến truy xuất nguồn gốc, sản lượng dù tăng cũng không đảm bảo giá trị gia tăng, thậm chí có nguy cơ mất thị trường xuất khẩu. Ông đề xuất thử nghiệm cơ chế sandbox cho các mô hình kinh tế biển xanh, thúc đẩy tái chế rác thải ngư nghiệp và phụ phẩm thủy sản, đồng thời tăng cường điều tra cơ bản và liên kết vùng.

Đặc biệt, ông nhấn mạnh vai trò của ngư dân – những người “đọc vị biển bằng trực giác và kinh nghiệm truyền đời” – phải là trung tâm của quản trị biển bền vững. Khi sinh kế tốt hơn, hành vi khai thác tận diệt hay xả rác sẽ thay đổi tự nhiên. “Pháp luật phải nghiêm minh nhưng nhân văn”, ông nói.

Theo Phó Chủ tịch Quốc hội, sự cộng hưởng giữa ngư dân – doanh nghiệp – chính quyền – nhà khoa học – nhà lập pháp là yếu tố quyết định. Khi các chủ thể cùng “chung tần số”, năng lực thực thi chính sách sẽ được nâng lên, giúp Việt Nam tiến nhanh hơn trên con đường xây dựng nền kinh tế biển xanh, hiện đại và bền vững, phù hợp mục tiêu Nghị quyết 36 về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển đến năm 2030, tầm nhìn 2045.

Minh Khuê 

Bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Hãy là người đầu tiên bình luận trong bài
error: Content is protected !!