Đặc khu Kiên Hải đẩy mạnh nuôi biển hiện đại

Chưa có đánh giá về bài viết

(TSVN) – Ở vùng ĐBSCL, Đặc khu Kiên Hải của tỉnh An Giang là điển hình về tiềm năng và lợi thế nuôi biển với diện tích vùng biển 3.325 km2 (chiếm gần 99,3% tổng diện diện tích 3.350 km2), còn 23 hòn đảo chỉ có diện tích 24 km2. Chủ trương hiện nay của Đặc khu là đẩy mạnh nuôi biển theo hướng hiện đại.

Thu hút doanh nghiệp nuôi biển công nghiệp

Dân số Đặc khu Kiên Hải có 22.949 người, chia ra 13 ấp với 116 tổ nhân dân tự quản; trung tâm hành chính ở đảo Hòn Tre, cách Rạch Giá hơn 30 km. Với địa hình các đảo phân bố rải rác trên vùng biển Tây Nam, Kiên Hải được xem là địa bàn có tiềm năng, lợi thế rất lớn về phát triển kinh tế biển, tập trung vào nuôi biển và du lịch biển. Những năm gần đây, khai thác hải sản khó khăn do nguồn lợi tự nhiên cạn kiệt nên Kiên Hải càng chú trong nuôi biển, phấn đấu đến năm 2030 vào tốp cấp huyện dẫn đầu cả nước về sản lượng nuôi biển. 

Quần đảo Nam Du đang phát triển nhiều dự án nuôi biển công nghiệp

Năm qua, Kiên Hải lập quy hoạch 21 vị trí nuôi biển. Đến nay đã có 215 hộ nuôi, 1.189 lồng, tổng thể tích 756.000m3, trên 662.000 con cá các loại. Đối tượng nuôi chủ lực là những loài có giá trị kinh tế cao như: Cá bóp, cá mú các loại, cá chim vây vàng. 

Nhiều mô hình mới như nuôi trong lồng HDPE bằng thức ăn công nghiệp kết hợp trồng Rong Sụn. Từ đó, sản lượng hàng năm đạt trung bình 1.200 tấn và trong 8 tháng đầu năm 2025 đã đạt 900 tấn (62% kế hoạch năm), tạo việc làm ổn định cho hơn 1.200 người (hơn 5,2% dân số Đặc khu), nâng thu nhập bình quân đầu người năm 2024 hơn 73,25 triệu đồng. Đặc khu không còn hộ nghèo, nhà tạm, dột nát.

Thu hút đầu tư nuôi biển, Kiên Hải đã có Tập đoàn Mavin và Công ty Australis Việt Nam đến chọn nuôi biển công nghiệp tập trung tại vùng biển Quần đảo Nam Du. Đây là những doanh nghiệp nuôi biển áp dụng công nghệ hiện đại. Bên cạnh, tỉnh An Giang đã phê duyệt danh mục kêu gọi đầu tư 4 dự án nuôi biển công nghiệp, ứng dụng công nghệ cao trên vùng biển Quần đảo Nam Du.

Khó khăn và thách thức

Trước tiên, công tác quy hoạch và quản lý vùng nuôi chưa đồng bộ, còn chồng lấn giữa các hoạt động khai thác và bảo tồn. Hạ tầng phục vụ nuôi biển (khu hậu cần nghề cá; cơ sở chế biến…) chưa đáp ứng nhu cầu.

Nuôi biển còn khó tiếp cận vốn tín dụng lãi suất thấp, dài hạn để đầu tư công nghệ mới, hiện đại nên khả năng mở rộng sản xuất bị hạn chế. Nhân lực chất lượng cao, ứng dụng công nghệ tiên tiến chưa nhiều.

Vùng biển chịu tác động của biến đổi khí hậu, nguy cơ ô nhiễm môi trường biển cục bộ, nguồn cá giống thiếu ổn định. Từ đó, dịch bệnh còn hiện hữu, dẫn đến tỷ lệ hao hụt lớn trong quá trình nuôi.

Bên cạnh một số doanh nghiệp bước đầu triển khai nuôi biển công nghiệp thì hầu hết hộ nuôi quy mô nhỏ lẻ, kỹ thuật chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, thiếu quy chuẩn về an toàn sinh học, truy xuất nguồn gốc. Từ đó, năng lực liên kết chuỗi giá trị còn hạn chế.

Giải pháp phát triển theo hướng hiện đại

Đặc khu Kiên Hải xác định đến năm 2030 phát triển mạnh nuôi biển với ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Giải pháp trọng tâm, trọng điểm như sau:

Quy hoạch và quản lý vùng nuôi: Rà soát, cập nhật quy hoạch, phân vùng nuôi hợp lý, gắn với bảo tồn hệ sinh thái và bảo đảm quốc phòng, an ninh. Phát triển hạ tầng và dịch vụ hậu cần: Đầu tư cảng cá, bến neo đậu, khu tránh trú bão, kho lạnh, cơ sở chế biến, trung tâm giống thủy sản chất lượng cao.

Ông Tạ Thanh Tùng, chủ trại nuôi biển cá lồng bè, trong đó có cá mú trân châu là cá đặc sản tại ấp Bãi Ngự, đặc khu Kiên Hải Ảnh: Báo Dân Việt

Ứng dụng khoa học – công nghệ: Khuyến khích sử dụng lồng bè HDPE, hệ thống cho ăn tự động, giám sát môi trường nước qua thiết bị cảm biến IoT, công nghệ Biofloc và tuần hoàn nước. 

Tổ chức lại sản xuất: Thực hành sản xuất theo các vùng nuôi tập trung, áp dụng tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, ASC; xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu cho sản phẩm chủ lực của Kiên Hải. Liên kết sản xuất – tiêu thụ: Phát triển mô hình Hợp tác xã, kết hợp tăng cường liên kết “4 nhà”: Nhà nước – Nhà khoa học – Nhà doanh nghiệp – Nhà nông, để hình thành chuỗi giá trị khép kín từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ.

Bảo vệ môi trường và thích ứng biến đổi khí hậu: Tăng cường bảo vệ nguồn lợi thủy sản nhất là các bãi giống tự nhiên ven đảo, các rạn san hô. Xây dựng hệ thống thu gom và xử lý chất thải nuôi biển; áp dụng quy trình nuôi an toàn sinh học để kiểm soát dịch bệnh. Đầu tư, mở rộng hệ thống quan trắc nước biển để dự báo sớm các yếu tố môi trường nuôi, tăng cường giám sát dịch bệnh.

Đặc khu Kiên Hải cũng kiến nghị Trung ương ban hành cơ chế, chính sách đặc thù về tín dụng ưu đãi cho tổ chức, cá nhân tham gia nuôi biển, bảo hiểm thủy sản, dịch vụ hậu cần nghề nuôi. Và kiến nghị với tỉnh An Giang đầu tư hạ tầng nuôi biển đồng bộ; hỗ trợ kinh phí nghiên cứu khoa học, hỗ trợ chuyển giao khoa học kỹ thuật, công nghệ phục vụ phát triển kinh tế biển, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho các địa phương.

Sáu Nghệ

Bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Hãy là người đầu tiên bình luận trong bài
error: Content is protected !!