(TSVN) – Bệnh phân trắng trên tôm không chỉ gây sụt giảm tốc độ tăng trưởng mà còn kéo theo hàng loạt hệ lụy như hao hụt đàn, chi phí điều trị tăng cao và nguy cơ mất trắng vụ nuôi. Nếu không phát hiện và xử lý kịp thời, người nuôi có thể đối mặt với thiệt hại kinh tế nghiêm trọng, đặc biệt trong giai đoạn giao mùa hoặc mật độ thả nuôi cao.
Không lạ khi phân trắng xuất hiện dày đặc trong các ao nuôi thời điểm này. Phân tôm đứt khúc, trắng đục, nổi bềnh bồng trên mặt nước hay bám quanh bờ ao là dấu hiệu đầu tiên. Tôm giảm ăn, bơi yếu, ruột mờ, gan nhạt màu hoặc bị teo.
Thực hiện cải tạo ao tôm đúng kỹ thuật. Ảnh: Tép bạc
Nguyên nhân trực tiếp gây bệnh đến từ chất lượng nước xấu. Sau những cơn mưa, pH tụt sâu, kiềm giảm, hàm lượng ôxy hòa tan thấp. Đặc biệt ở những ao nhiều hữu cơ, tảo tàn hoặc thức ăn dư thừa, hiện tượng bùng phát khí độc (NH3, NO2) thường xuyên xảy ra, làm đường ruột tôm mất ổn định. Các loài vi khuẩn cơ hội như Vibrio spp., nấm men, ký sinh trùng tấn công đường ruột, phá vỡ hàng rào vi sinh tự nhiên.
Điều nguy hiểm là bệnh không gây chết hàng loạt ngay, mà kéo dài âm ỉ, gây suy tôm, làm bội nhiễm các bệnh gan tụy, đục cơ, thậm chí hoại tử. Nếu không xử lý sớm, năng suất cuối vụ giảm nghiêm trọng.
Giải pháp đầu tiên là giảm tải đường ruột. Cắt thức ăn 1 bữa, sau đó giảm khẩu phần 30 – 50%. Tuyệt đối không tiếp tục cho ăn lượng như cũ trong khi tôm đã yếu và ruột rối loạn. Việc “ép ăn” chỉ khiến thức ăn tồn đọng, gây ô nhiễm đáy nặng hơn.
Kế tiếp là ổn định môi trường nước. Bổ sung chế phẩm sinh học đáy có chứa Bacillus spp., vi sinh phân hủy hữu cơ. Tạt men vi sinh nước liều tăng gấp đôi bình thường để tái lập hệ vi sinh có lợi trong nước. Nếu nước đục, nhiều bọt, có thể thay 10 – 20% nước kết hợp bơm xả đáy nhẹ.
Hàm lượng ôxy hòa tan (DO) luôn là ưu tiên hàng đầu. Tăng cường quạt nước, đặc biệt sau mưa hoặc thời điểm chiều tối – sáng sớm. Nếu có điều kiện, lắp thêm sục khí đáy để duy trì DO > 4 mg/L, giúp hạn chế khí độc và hỗ trợ tôm phục hồi nhanh hơn.
Thức ăn trong giai đoạn này cần phối trộn hợp lý. Người nuôi trộn men tiêu hóa (enzyme amylase, protease, lipase), Vitamin C, B-Complex, chất điện giải và các sản phẩm thảo dược như chiết xuất tỏi, nghệ, hồi phục chức năng gan ruột. Dùng liên tục 5 – 7 ngày, giảm dần khi thấy phân tôm trở lại bình thường.
Tuyệt đối không sử dụng kháng sinh nếu chưa rõ nguyên nhân gây bệnh. Việc lạm dụng kháng sinh không chỉ làm mất cân bằng hệ vi sinh đường ruột mà còn làm tăng tỷ lệ kháng thuốc, ảnh hưởng tiêu cực đến cả chu kỳ nuôi sau.
Sau khi kiểm soát thành công, vẫn nên duy trì phác đồ ổn định đường ruột định kỳ 7 – 10 ngày/lần bằng cách luân phiên: 3 ngày men vi sinh – 3 ngày nghỉ – 3 ngày bổ sung vitamin, khoáng, thảo dược. Biện pháp này giúp đường ruột tôm luôn khỏe, tiêu hóa tốt, miễn dịch ổn định.
Về lâu dài, chủ động phòng bệnh là ưu tiên cao nhất. Ngay từ đầu vụ cần cải tạo ao đúng kỹ thuật: hút bùn đáy, phơi ao ít nhất 10 ngày, bón vôi CaO liều thấp, diệt tạp đúng liều lượng. Sau khi cấp nước cần xử lý vi sinh cấy nền, đo các chỉ số cơ bản như pH, kiềm, độ mặn, NH3 trước khi thả giống.
Trong suốt vụ nuôi, theo dõi diễn biến thời tiết, chủ động giảm thức ăn khi có mưa, âm u kéo dài. Không nuôi quá dày, hạn chế dùng thức ăn độ đạm cao liên tục, vì dễ làm gan tôm quá tải, phân thải ra nhiều, tạo nền tích tụ khí độc.
Phân trắng không phải bệnh lạ, nhưng luôn là thách thức, đặc biệt trong giai đoạn giữa vụ - khi tôm chuẩn bị tăng tốc sinh trưởng. Chìa khóa để kiểm soát hiệu quả nằm ở việc giữ môi trường ổn định, hỗ trợ tiêu hóa và tăng miễn dịch tự nhiên. Một hệ ruột khỏe chính là hàng rào tốt nhất giúp tôm chống lại mọi tác nhân gây bệnh từ nước.
Hoàng Ngân