(TSVN) – Thế giới đang chuyển mình trong kỷ nguyên xanh, nơi tăng trưởng kinh tế không thể tách rời trách nhiệm với môi trường. Trong dòng chảy đó, cá rô phi – loài cá nước ngọt quen thuộc đang được nhìn nhận như “ứng viên sáng giá” cho chiến lược phát triển thủy sản xanh.
Theo báo cáo của Cục Thủy sản và Kiểm ngư, diện tích nuôi cá rô phi trên cả nước năm 2024 đạt khoảng 42.000 ha, sản lượng 316.000 tấn, kim ngạch xuất khẩu 41 triệu USD. Nếu tính riêng 6 tháng đầu năm nay, sản lượng cá rô phi ước đạt 220.000 tấn, lũy kế 8 tháng đầu năm đạt 63,3 triệu USD, gấp gần 3 lần so với cùng kỳ năm ngoái. Các vùng nuôi tập trung chủ yếu ở Đồng bằng sông Cửu Long (An Giang, Đồng Tháp), Đồng bằng sông Hồng (Bắc Ninh, Hải Phòng) và một số tỉnh miền núi phía Bắc như Phú Thọ, Sơn La.
Việt Nam hiện đứng trong nhóm 10 quốc gia sản xuất cá rô phi lớn của thế giới. Thị trường tiêu thụ chính là Mỹ, EU, Trung Đông và Nam Mỹ, trong đó các sản phẩm chủ lực gồm phi lê đông lạnh, cá rô phi tươi và chế biến sẵn. Ngược lại, nhập khẩu cá rô phi vào Việt Nam chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ, chủ yếu phục vụ chế biến xuất khẩu tái xuất.
Phát biểu tại Diễn đàn phát triển sản xuất và tiêu thụ cá rô phi tổ chức tại Hải Phòng mới đây, ông Nhữ Văn Cẩn – Phó Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư, cho biết dù kim ngạch xuất khẩu sản phẩm này mới chỉ đạt 70–80 triệu USD, nhưng tiềm năng còn rất lớn. “Cá rô phi hoàn toàn có thể trở thành ngành hàng tỷ đô tiếp theo của thủy sản Việt Nam nếu phát triển theo hướng xanh, có chuỗi liên kết và thương hiệu quốc gia,” ông nhấn mạnh.
Nhận thức rõ điều đó, Cục Thủy sản và Kiểm ngư đã và đang tập trung vào tám nhóm giải pháp trọng tâm để đưa cá rô phi trở thành sản phẩm chiến lược. Từ quy hoạch vùng nuôi tập trung, phát triển giống chọn lọc GIFT và rô phi đỏ, đến thúc đẩy liên kết chuỗi và ứng dụng công nghệ tuần hoàn, tất cả đều hướng tới mục tiêu chung là chuẩn hóa quy trình, nâng chất lượng và giảm phát thải.
“Điều quan trọng không phải mở rộng diện tích, mà là làm cho mỗi vùng nuôi có danh tính, có tiêu chuẩn, có khả năng truy xuất nguồn gốc,” ông Cẩn nói.
Theo ông Nguyễn Hoài Nam, Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), cá rô phi đang vươn lên trở thành một trong những loài cá được tiêu thụ nhiều nhất thế giới. Năm 2024, sản lượng cá rô phi toàn cầu đạt hơn 7 triệu tấn, dự báo tăng lên 7,3 triệu tấn trong năm 2025, với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 3,5%/năm. Châu Á hiện là trung tâm sản xuất lớn nhất, chiếm tới 67% tổng sản lượng, trong đó Trung Quốc dẫn đầu với khoảng 1,8 triệu tấn, tương đương hơn một nửa lượng cá rô phi xuất khẩu toàn cầu.
Cá rô phi được đánh giá là loài cá “dễ nuôi – dễ thích nghi – hiệu quả cao”, đồng thời đáp ứng xu hướng tiêu dùng mới của thế giới: ưu tiên thực phẩm lành mạnh, có nguồn gốc bền vững và truy xuất rõ ràng. Các thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản và Trung Đông đang gia tăng nhập khẩu sản phẩm cá rô phi đạt chứng nhận ASC, BAP hoặc GlobalGAP – một tín hiệu tích cực cho các nước đang phát triển như Việt Nam.
“Đây là thời điểm vàng để Việt Nam bứt phá, khi nhiều quốc gia sản xuất lớn đang gặp khó về chi phí, môi trường và dịch bệnh,” ông Nam nhận định.
Những định hướng đó đang được hiện thực hóa bằng những mô hình cụ thể ở nhiều địa phương. Tại An Giang, nơi được coi là “vựa cá nước ngọt” của miền Tây Nam Bộ, việc nuôi cá rô phi theo hướng tuần hoàn sinh học đã mang lại hiệu quả rõ rệt. Theo ông Trần Thanh Hiệp – Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh An Giang, toàn tỉnh có hơn 1.000 ha cá rô phi thương phẩm, trong đó phần lớn đạt chứng nhận VietGAP.
“Chúng tôi không mở rộng bằng mọi giá, mà tập trung nâng chuẩn kỹ thuật, giảm phát thải, tái sử dụng nước và xử lý chất thải hữu cơ. Mục tiêu là phát triển bền vững, bảo vệ môi trường và duy trì sinh kế cho người dân,” ông Hiệp chia sẻ.
Từ thực tế tại An Giang có thể thấy, khi chính quyền đồng hành cùng người nuôi, phát triển bền vững không còn là khẩu hiệu. Mỗi ao nuôi, mỗi hộ dân đều đang là mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị xanh mà Việt Nam hướng tới. Câu chuyện ấy cũng đang diễn ra mạnh mẽ ở miền Bắc – nơi doanh nghiệp đang trở thành động lực trung tâm của quá trình chuyển đổi.
Tại Hợp tác xã Sản xuất & Thương mại Thủy sản Xuyên Việt (Hải Phòng), người ta có thể thấy hình mẫu một chuỗi liên kết khép kín: từ con giống, quy trình nuôi, thu hoạch đến chế biến và xuất khẩu. Hệ thống ao nuôi ở đây được giám sát bằng cảm biến môi trường 24/7, quản lý dữ liệu qua phần mềm, và áp dụng công nghệ Biofloc giúp tái tạo vi sinh, hạn chế chất thải.
“Chúng tôi nuôi cá theo cách mới – sạch từ ao nuôi đến bàn ăn, và minh bạch toàn chuỗi. Khi người nuôi, doanh nghiệp và cơ quan quản lý cùng đi chung một hướng, con cá Việt Nam sẽ đủ sức đi xa,” ông Lê Văn Việt – Chủ tịch HĐQT Xuyên Việt khẳng định. Không chỉ dừng ở sản xuất, Xuyên Việt còn đầu tư mạnh vào chế biến sâu, phát triển sản phẩm giá trị gia tăng như cá phi lê, chả cá, thực phẩm tiện lợi,…
Không chỉ dùng làm thực phẩm, phụ phẩm từ cá rô phi có thể được tận dụng làm bột protein, dầu cá và phân hữu cơ, tạo nên mô hình kinh tế tuần hoàn không rác thải, vừa giúp gia tăng giá trị, vừa bảo vệ môi trường. Theo VASEP, nếu 50% doanh nghiệp cá rô phi Việt Nam áp dụng mô hình xanh như Xuyên Việt, giá trị xuất khẩu toàn ngành có thể tăng thêm 40%. “Xanh không chỉ là xu hướng, mà là điều kiện để tồn tại trong thị trường quốc tế,” ông Nguyễn Hoài Nam, Tổng Thư ký VASEP nhận định.
Sự thay đổi trong tư duy sản xuất đang được thúc đẩy mạnh mẽ bởi công nghệ. Theo ông Ngô Thế Anh – Trưởng phòng Nuôi trồng Thủy sản, Cục Thủy sản và Kiểm ngư: “Nếu trước đây người nuôi cần kinh nghiệm, thì nay họ cần dữ liệu. Ai nắm dữ liệu, người đó làm chủ chất lượng.”
Mô hình tuần hoàn RAS, cảm biến IoT, cho ăn tự động, nhật ký điện tử… đang dần thay thế cách làm truyền thống, giúp kiểm soát môi trường và tăng hiệu quả sản xuất. Công nghệ cũng mở ra hướng khai thác phụ phẩm – phần giá trị bị bỏ quên lâu nay khi 30–40% khối lượng cá có thể tận dụng làm collagen, dầu cá, hoặc nguyên liệu dược phẩm.
Việc kết hợp giữa chính sách, công nghệ và doanh nghiệp đang giúp Việt Nam tiến gần hơn tới mục tiêu xây dựng thương hiệu quốc gia cá rô phi tương tự như thành công của cá tra trước đây.
Theo kế hoạch, đến năm 2030, sản phẩm cá rô phi mang thương hiệu quốc gia sẽ được gắn mã truy xuất vùng nuôi, logo nhận diện thống nhất, và đáp ứng tiêu chuẩn xanh – sạch – minh bạch.
“Thương hiệu không chỉ là tên gọi, mà là lời cam kết về chất lượng, trách nhiệm và uy tín của Việt Nam trên thị trường quốc tế,” Phó Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư Nhữ Văn Cẩn nhấn mạnh.
Tuy nhiên, để đạt được điều đó, các chuyên gia cho rằng cần đồng thời tháo gỡ nút thắt về vốn và hạ tầng. Nhiều hộ nuôi và doanh nghiệp nhỏ vẫn khó tiếp cận tín dụng xanh để đầu tư công nghệ mới. Theo ông Nguyễn Hoài Nam (VASEP), cần có chính sách ưu đãi thực chất cho mô hình sản xuất tuần hoàn, chế biến phụ phẩm, và hệ thống truy xuất điện tử. “Khi lợi ích kinh tế và lợi ích môi trường đi cùng nhau, ‘xanh’ mới có thể trở thành hiện thực,” ông Nam khẳng định.
Hành trình phát triển cá rô phi Việt Nam hôm nay là sự kết nối của ba trụ cột: Nhà nước kiến tạo chính sách, doanh nghiệp dẫn dắt chuỗi giá trị, và người nuôi – chuyên gia trực tiếp tạo nên sản phẩm. Khi ba lực này đồng hành, cá rô phi Việt Nam không chỉ là mặt hàng xuất khẩu, mà còn là hình ảnh của nông nghiệp xanh – trách nhiệm – hội nhập.
Ngành hủy sản đặt mục tiêu năm 2030, sản lượng cá rô phi trong nước đạt khoảng 400.000 tấn, kim ngạch xuất khẩu 100 triệu USD, hướng tới xây dựng thương hiệu quốc gia “Cá rô phi Việt Nam” gắn với chứng nhận quốc tế như ASC, BAP hoặc VietGAP; đồng thời đề ra 8 nhóm giải pháp: Quy hoạch hạ tầng vùng nuôi; Phát triển giống chất lượng cao; Ứng dụng công nghệ nuôi tiên tiến; Giảm chi phí thức ăn, nâng hiệu quả kinh tế; Tổ chức sản xuất theo chuỗi; Đầu tư chế biến sâu; Xây dựng thương hiệu quốc gia; Tăng cường chuyển đổi số và quản lý chất lượng.
Thùy Khánh
hiện tại tôi có ao nuôi mong cty bao tiêu sản phẩm đầu ra tôi ở tiền giang nay là đồng tháp