(TSVN) – Theo các doanh nghiệp, gần như tất cả những yếu tố nào gây khó khăn cho việc xuất khẩu thủy sản đều được xếp vào nhóm rào cản thương mại. Tuy nhiên, nếu xét về chiều sâu và có sự cân bằng của các yếu tố về kinh tế, môi trường lẫn xã hội thì không hẳn tất cả đều là rào cản, thậm chí có một số yếu tố trở thành động lực, thành điều kiện để hướng đến chuỗi cung ứng hiệu quả và bền vững hơn.
Chia sẻ về các rào cản thương mại đối với ngành thủy sản, các doanh nghiệp đều cho rằng “thị trường nào cũng có”, nhưng không phải thị trường nào cũng giống nhau. Đơn cử như đối với thị trường Mỹ, rào cản lớn nhất và cũng khó đoán nhất của sản phẩm thủy sản hiện nay là vấn đề thuế.
Nói đến câu chuyện thuế ở thị trường Mỹ trong bối cảnh hiện nay, chắc hẳn mọi người sẽ nhắc nhiều đến mức thuế đối ứng. Điều này cũng không có gì lạ, bởi đây cũng chính là sắc thuế từng gây khá nhiều ồn ào, gây rối loạn kinh tế, làm gián đoạn tạm thời một số chuỗi cung ứng… thế giới. Sau các bước đàm phán đầu tiên, hiện tại, mức thuế này đối với hàng thủy sản Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ là 20%, tuy không quá cao so với đối thủ nhưng ít nhiều đã có tác động tiêu cực đến kim ngạch xuất khẩu thủy sản cả nước trong những tháng cuối năm 2025.
Tuy nhiên, theo ông Hồ Quốc Lực – Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Thực phẩm Sao Ta, thuế đối ứng là câu chuyện giữa hai Chính phủ với nhau, nên hiện tại doanh nghiệp chỉ có thể kỳ vọng vào một kết quả đàm phán tốt đẹp giữa Chính phủ hai nước để con tôm Việt nam nhẹ bớt nỗ lo về mức thuế này.
Liên quan đến rào cản về thuế, theo các doanh nghiệp thủy sản, điều đáng lo nhất hiện nay không phải là thuế đối ứng, mà chính là thuế chống bán phá giá tôm tại trường Mỹ. Đây là sắc thuế không mới, nếu không muốn nói là quá quen thuộc đối với doanh nghiệp ngành tôm và cá tra của Việt Nam. Tuy nhiên, với mức thuế sơ bộ dành cho bị đơn bắt buộc lần này trên 35% được doanh nghiệp đánh giá là rủi ro rất lớn cho ngành tôm không chỉ ở những tháng cuối năm. Mà quan trọng hơn là cả năm 2026. Đây chính là điều khiến các doanh nghiệp đều lo âu dù hiện tại mức thuế này vẫn chưa áp dụng.
Theo ông Lực, câu chuyện thuế chống bán phá giá và thuế chống trợ cấp lần này có đôi chút phức tạp chứ không đơn giản như góc nhìn ban đầu. Vì vậy, thời gian qua, khi xuất khẩu vào Mỹ, doanh nghiệp đã phải trích lập dự phòng 8% theo quy định của ngành kiểm toán.
Nếu như thuế quan là rào cản thương mại chính, gây khó khăn cho doanh nghiệp tại thị trường Mỹ, thì sự rối rắm của các quy định về IUU, về cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM), về thẩm định chuỗi cung ứng… từ thị trường EU đã và đang được doanh nghiệp đánh giá là những thách thức và rủi ro lớn khi xuất khẩu vào thị trường này.
Chỉ riêng câu chuyện thẻ vàng IUU, dù Chính phủ, các bộ ngành và địa phương đã vào cuộc rất quyết liệt trong gần 10 năm qua nhưng đến nay vẫn chưa khắc phục được, khiến nguy cơ sản phẩm thủy sản khai thác đánh mất thị trường EU đang ngày càng đáng lo hơn. Hay như Đạo luật bảo tồn động vật có vú biển (MMPA) cũng đang trở thành rào cản không nhỏ cho việc xuất khẩu một số sản phẩm khai thác biển vào thị trường Mỹ.
Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) đã có hiệu lực trong mấy năm nay, nhưng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu thủy sản, đặc biệt là con tôm vào thị trường này trong những năm qua là chưa tương xứng với tiềm năng và sự kỳ vọng. Nguyên nhân chủ yếu theo doanh nghiệp là tỷ lệ sản phẩm đạt tiêu chuẩn của EU (như ASC chẳng hạn) chưa nhiều, giá thành sản phẩm còn quá cao. Tới đây, các quy định về an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc và các tiêu chuẩn môi trường, xã hội… của EU và các nước nhập khẩu ngày càng khắt khe thì chỉ riêng việc giữ vững thị trường thôi đã khó.
Theo các doanh nghiệp, trong tương lai gần, tôm nuôi xuất khẩu vào EU phải đạt chuẩn (như ASC) mới thuận lợi để thu hút người tiêu dùng. Trong khi đó, hiện tỉ lệ tôm nuôi Việt Nam đạt chuẩn ASC còn rất khiêm tốn. Đây là một hạn chế lớn để tôm ta thâm nhập các hệ thống phân phối cao cấp.
“Do tỷ lệ tôm nuôi đạt ASC thấp, cộng thêm giá thành cao, nên dù có lợi thế về chế biến sâu và EVFTA, nhưng thị phần tôm Việt Nam ở EU chỉ quanh quẩn ở vị trí thứ 2 hoặc thứ 3 nhiều năm nay. Trong khi đó, tôm nuôi Ecuador có từ 30-40% đạt chuẩn này, cộng thêm giá thành thấp, nên dù tham gia thị trường EU muộn hơn nhưng hiện tôm Ecuador có thị phần khó ai dám mơ tới ở EU. Đây là một nút thắt cổ chai mà mọi thành phần tham gia chuỗi giá trị con tôm Việt Nam nên có quan tâm và tìm cách tháo gỡ”, ông Lực chia sẻ thêm.
Bên cạnh các rào cản thương mại chính là thuế quan và phi thuế quan, theo các doanh nghiệp, một số yếu tố khác như: chi phí vận tải tăng, cạnh tranh gay gắt, các biện pháp bảo hộ sản xuất nội địa và các bất ổn địa chính trị và gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu cũng là những rào cản gây không ít khó khăn cho hoạt động xuất khẩu.
Tuy nhiên, điều doanh nghiệp quan tâm nhất trong số những rào cản này chính là giá tôm nguyên liệu trong nước luôn ở mức quá cao so với các cường quốc tôm khác, như: Ecuador, Ấn Độ, thậm chí là cả Indonesia.
Ông Võ Văn Phục – Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Thủy sản sạch Việt Nam (Vinacleanfood), chia sẻ: “Giá thành sản xuất tôm của Việt Nam thường cao hơn các nước có khi lên đến 1 USD/kg. Vì vậy, tôm Việt Nam chỉ thật sự mạnh ở những phân khúc cao cấp, còn ở những phân khúc mà Ecuador và Ấn Độ làm được thì chúng ta rất khó cạnh tranh với họ”.
Câu chuyện rào cản thương mại cũng được các doanh nghiệp nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau, trong đó có cả tích cực, lẫn tiêu cực. Đơn cử như vấn đề thuế nói chung và thuế chống bán phá giá nói riêng gọi là rào cản là hoàn toàn phù hợp, nhưng một số vấn đề, như: truy xuất nguồn gốc, giảm phát thải, sản xuất xanh, tuần hoàn… thì một mặt là rào cản, nhưng mặt khác cũng là động lực để sản xuất bền vững hơn, là điều kiện để sản phẩm xâm nhập ngày một sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu, như cách đánh giá của ông Lực: “Hiện nay, doanh nghiệp nào đáp ứng đầy đủ các chuẩn trong chuỗi cung ứng của EU thì có thể nói là gần như họ không cần phải đi tìm khách hàng, mà khách hàng EU sẽ tự tìm đến doanh nghiệp để đặt hàng”.
Theo các doanh nghiệp, với thực trạng nuôi trồng thủy sản, nói chung và con tôm nói riêng còn nhỏ lẻ manh mún như hiện nay thì việc vượt rào cản, đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn trong chuỗi cung ứng thế giới là vấn đề hết sức nan giải. Vì vậy, vấn đề tổ chức lại sản xuất theo hướng hợp tác gắn với liên kết chuỗi giá trị cũng như chính sách tích tụ đất đai là hết sức quan trọng trong thời gian tới.
Có thể nói, việc hoàn thiện chuỗi cung ứng thủy sản là bước đi tất yếu không chỉ để vượt qua các rào cản mà còn giúp thủy sản Việt Nam có cơ hội lớn hơn trong việc xâm nhập ngày một sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Đặc biệt, trong bối cảnh khó khăn, rủi ro ngày càng chồng chất, thì việc minh bạch và hoàn thiện chuỗi cung ứng sẽ là một sự thuyết phục hết sức hữu hiệu giúp ngành tôm nói riêng và thủy sản nói chung không chỉ giữ vững mà còn gia tăng uy tín, thị phần tại thị trường EU.
Xuân Trường