Tỉnh Thanh Hóa cần chủ động mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tiếp cận, cập nhật thông tin một cách đầy đủ và chính xác, đánh giá đúng khả năng sản xuất và mạnh dạn đầu tư đổi mới trang thiết bị, nâng cao chất lượng hàng thủy sản xuất khẩu, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, tận dụng tối đa các lợi thế vẫn được coi là thế mạnh của địa phương…
1. Hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, cơ chế chính sách đặc thù về xuất khẩu thủy sản tại thị trường EU
Do đặc diểm sản phẩm của hàng thủy sản là khó bảo quản, dễ hư hỏng, cho nên vấn đề đảm bảo chất lượng đạt tiêu chuẩn xuất khẩu là yếu tố quyết định. Cần chủ động tạo dựng nguồn vốn hơn nữa từ bên trong hay bên ngoài bằng mọi con đường khác nhau. Chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cần phải hoàn thiện hơn. Mọi hoạt động sản xuất nuôi trồng thủy sản phải gắn trực tiếp với thị trường, luôn luôn thay đổi chính sách cơ chế đầu tư phù hợp với sự thay đổi của thị trường đặc biệt là thị trường EU.
Cần phải rà soát và thay đổi những quy định không còn phù hợp với thời đại ngày nay như một số điều trong luật thủy sản, luật đầu tư nước ngoài, luật khuyến khích đầu tư trong nước để tạo ra các điều kiện thông thoáng hơn cho phát triển và thu hút vốn đầu tư nước ngoài để phát triển ngành thủy sản.
Quy hoạch và quản lý thống nhất hệ thống chế biến thủy sản bằng cách giao việc cấp giấy phép đầu tư xây dựng mới và nâng cấp nhà máy chế biến thủy sản cho một đầu mối duy nhất là bộ thủy sản, chuyển việc đầu tư theo lĩnh vực kỹ thuật là chính sang đầu tư theo 4 chương trình mục tiêu đã xây dựng trong chiến lược xuất khẩu thủy sản của Thanh Hóa.
Thực hiện chính sách ưu đãi để khuyến khích các doanh nghiệp thủy sản mở rộng quy mô sản xuất mở rộng thị trường kinh doanh. Thực hiện chế độ ưu đãi cho vay vốn hoặc cho giữ lại vốn khấu hao để khuyến khích các doanh nghiệp tái đầu tư, cho trước một phần thuế xuất khẩu để cho các doanh nghiệp đổi mới công nghệ sản xuất sản phẩm với giá trị ngày càng tăng. Thành lập cơ quan thông tin tiếp thị thủy sản, cho phép ngành thủy sản trích một phần nào đó trong thuế xuất khẩu để thành lập quỹ xuất khẩu thủy sản.
Cụ thể:
– Thanh Hóa cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu để đa dạng hóa các mặt hàng xuất khẩu.
– Tiến hành sắp xếp lại các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu trong tỉnh nhằm hạn chế mức độ cạnh tranh nguyên liệu làm giảm đi sức mạnh của ngành.
– Tăng cường cải tạo và nâng cao xây dựng kết cấu hạ tầng như đường, điện, nước, và giải quyết khâu thoát nước trong khu công nghiệp và các đơn vị chế biến hàng thủy sản xuất khẩu tránh gây ô nhiểm môi trường trong khu vực.
– Xây dựng, phát triển hạ tầng và có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào khu công nghiệp chế biến, tạo điều kiện để kinh tế tư nhân đầu tư sản xuất hàng thuỷ sản xuất khẩu như: địa điểm sản xuất, ưu đãi tiền thuê đất, vốn vay tín dụng nhằm khai thác, thu mua, tập trung chế biến nguyên liệu thủy sản của các tàu đánh bắt thủy sản của miền Trung và cả nước.
– Khuyến khích các thành phần kinh tế có chương trình liên doanh, liên kết với các tỉnh duyên hải miền Trung để đầu tư vùng nguyên liệu, phối hợp cung ứng nguyên liệu phục vụ cho sản xuất và xuất khẩu.
– Có chính sách hỗ trợ và phát huy nội lực của các doanh nghiệp thủy sản nhằm đổi mới mở rộng và gia tăng đầu tư máy móc thiết bị công nghệ hiện đại để sản xuất chế biến đông lạnh thủy sản tinh chế.
– Nghiên cứu thị hiếu tiêu dùng của một số nước có sức nhập khẩu lớn tại EU để đa dạng hóa mặt hàng, nâng cao chất lượng, bảo vệ uy tín sản phẩm, xây dựng thương hiệu và nhãn hiệu hàng hóa để thâm nhập sâu và ổn định.
– Hỗ trợ và khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thành lập và mở rộng các dự án kêu gọi vốn đầu tư của nước ngoài.
– Tăng cường các hoạt động xúc tiến xuất khẩu vào thị trường EU.
– Trong xu thế hội nhập, thị trường trở thành vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp. Xúc tiến thương mại là khâu then chốt trong việc phát triển thị trường góp phần tăng trưởng xuất khẩu. Tăng cường xúc tiến thương mại phải được thực hiện đồng bộ cả ở tầm vĩ mô và vi mô, vừa đẩy mạnh khảo sát thị trường, tham gia hội chợ, tiếp xúc với các đoàn doanh nghiệp, các hội thảo khoa học để tìm kiếm và thu hút liên kết, hợp tác đầu tư du nhập giống mới, công nghệ mới…, đồng thời doanh nghiệp nâng cao năng lực thực hiện hoạt động xúc tiến thương mại, nâng cao hiệu quả trong công tác thu thập thông tin, dự báo thị trường.
– Tăng cường quan hệ trao đổi với Tham tán thương mại Việt Nam tại các nước có nhu cầu tiêu thụ hàng thủy sản, để thu thập và cung cấp thông tin về tình hình cung cầu hàng thủy sản của các thị trường truyền thống, thị trường tiềm năng có khả năng tiêu thụ số lượng lớn, những rào cản của các nước nhập khẩu để tránh rủi ro thiệt hại đảm bảo hoạt động xuất nhập khẩu đạt tăng trưởng cao, ổn định lâu dài.
– Cần phải tiến hành xây dựng, nâng cao và phát triển thương hiệu. Người dân EU là những người có mức thu nhập vào loại cao nhất thế giới do đó khả năng thanh toán, nhu cầu của họ là rất cao. Đổi lại thì họ cũng yêu cầu các mặt hàng phải có chất lượng, đảm bảo an toàn và đặc biệt phải có thương hiệu. Họ sẵn sàng bỏ ra hàng nghìn EURO để mua một sản phẩm có thương hiệu nổi tiếng. Nhưng họ sẽ không bỏ ra vài trăm EURO để mua một sản phẩm tương tự nhưng không có thương hiệu. Vì họ cho rằng thương hiệu đi kèm với nó là sự bảo đảm về chất lượng và an toàn. Đặc biệt với một sản phẩm thuộc về thực phẩm như thủy sản thì độ an toàn là trên hết do đó việc tạo ra các sản phẩm có thương hiệu sẽ giúp cho việc tiêu thụ sản phẩm thủy sản sẽ dễ dàng hơn và thu hút nhiều khách hàng hơn.
– Đẩy mạnh áp dụng thương mại điện tử trong kinh doanh và xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU.
– Các doanh nghiệp cần khai thác có hiệu quả quỹ phát triển doanh nghiệp của EU. Việc các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản của Việt Nam tiến hành xâm nhập thị trường EU có thể coi là một bước phát triển khách quan trong thời đại mới. Tuy nhiên do các doanh nghiệp này chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ cho nên việc thiếu vốn để gia tăng sản xuất cũng như nâng cấp thiết bị là một điều tất yếu.
2. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về xuất khẩu thủy sản, tăng cường sự hỗ trợ từ phía nhà nước
– Do hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đều là các doanh nghiệp vừa và nhỏ cho nên tiềm lực cũng như sức cạnh tranh là không cao. Vì điều này cho nên sự hỗ trợ của nhà nước thông qua các ngân hàng thương mại là vô cùng cần thiết. Nhà nước nên sử dụng hiệu quả quỹ hỗ trợ xuất khẩu để cho các doanh nghiệp vay vốn với lãi suất thấp để giải quyết vấn đề về vốn đầu tư đổi mới, đơn giản hóa thủ tục vay vốn và các yêu cầu thế chấp khi vay vốn. Ngoài ra, nhà nước cũng xúc tiến thành lập các ngân hàng chuyên doanh của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như thu hút sự tham gia của các doanh nghiệp lớn để giúp đỡ cho các doanh nghiệp đang gặp khó khăn, từ đó có thể tăng khả năng xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU.
– Nhà nước có thể hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại như đẩy mạnh phát triển thị trường thông qua việc ký kết các hiệp định song phương và đa phương, đẩy mạnh quan hệ ở cấp chính phủ về mở rộng thị trường cho các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta như thủy sản. Bên cạnh đó, nhà nước cũng có các chính sách để thúc đẩy, tạo điều kiện cho sản phẩm của các doanh nghiệp có thể tiếp cận được thị trường cũng như người tiêu dùng EU.
– Trong bối cảnh hiện nay khi thủy sản Việt Nam nói chung và của Thanh Hóa nói riêng chưa tạo cho mình được chỗ đứng vững chắc trên thị trường thì sự giúp đỡ của nhà nước là vô cùng quan trọng. Nhà nước sẽ giúp xây dựng thương hiệu cho một số mặt hàng chủ đạo, và cho phép các mặt hàng này được đăng ký sử dụng tên thương hiệu quốc gia.
– Ngoài ra, việc hỗ trợ và nâng cao năng lực cho các ngành phụ trợ như khai thác thủy sản, nuôi trồng thủy sản; Để đảm bảo tính hiệu quả và bền vững trong khai thác thì nhà nước có thể sử dụng các biện pháp như tăng cường nghiên cứu, điều tra để định hướng khai thác cho phù hợp kết hợp với việc tổ chức các mô hình khai thác thủy sản sao cho đạt được hiệu quả cao nhất, tăng đầu tư cơ sở vật chất phương tiện cũng như nâng cấp các trang thiết bị trên tàu để gia tăng khối lượng và đảm bảo chất lượng. Bên cạnh đó, cũng cần có các biện pháp để hỗ trợ cho ngành nuôi trồng thủy sản như tập trung vào tổ chức liên kết sản xuất sạch, tạo ra năng suất lớn.
– Cần hỗ trợ nhiều hơn nữa các biện pháp thiết thực nhằm thúc đẩy ngành thủy sản phát triển theo chiều sâu cho các doanh nghiệp cũng như các địa phương nằm trong vùng quy hoạch nuôi trồng thủy sản về vốn và công nghệ.
– Nhà nước cũng cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có cơ hội gặp gỡ giao thương với các đối tác nước ngoài và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vay vốn tín dụng hoặc chuyển đổi hình thức kinh doanh cũng như huy động các nguồn vốn khác nhằm mở rộng quy mô sản xuất cả về chiều rộng và chiều sâu.
– Trước tình hình thiếu hụt nguyên liệu nghiêm trọng như hiện nay thì nhà nước nên có chính sách mở rộng cho vay vốn đối với người nuôi để họ có thể một mặt khôi phục sản xuất tạo thu nhập cho bản thân và tạo cơ hội cho họ có thể trả nợ cho ngân hàng. Mặt khác có thể giúp doanh nghiệp có đủ nguyên liệu phục vụ chế biến xuất khẩu.
3. Tăng cường quản lý chất lượng, vệ sinh ATTP và giảm thiểu các thủ tục hành chính đối với xuất khẩu thủy sản
– Do EU là một thị trường vô cùng khó tính về chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm cho nên thủy sản Việt Nam muốn phát triển và xâm nhập sâu vào thị trường này đòi hỏi phải đáp ứng được các yêu cầu của họ. Chính vì vậy cần nâng cao chất lượng sản phẩm thông qua các phương pháp như thông tin tuyên truyền về an toàn vệ sinh thực phẩm cho những người trực tiếp sản xuất ra sản phẩm cũng như người tiêu dùng, giáo dục cho họ ý nghĩa của việc nâng cao chất lượng và vệ sinh thực phẩm. Bên cạnh đó cần xây dựng bộ máy quản lý chất lượng an toàn vệ sinh về thủy sản từ trung ương đến địa phương để đảm bảo thủy sản của Thanh Hóa đáp ứng được nhu cầu của thị trường.
– Để đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Các doanh nghiệp phải thực hiện thông suốt quá trình từ nuôi trồng cho đến chế biến thủy sản.
– Càng ngày, các thị trường EU càng yêu cầu thêm nhiều quy định về VSATTP. Do đó, việc đảm bảo kiểm soát VSATTP toàn chuỗi sản xuất của doanh nghiệp và các bên tham gia chuỗi nhằm đạt chất lượng. VSATTP và năng lực cạnh tranh cao là thách thức lớn đối với ngành thủy sản Thanh Hóa
– Tỉnh cần đưa ra nhiều chương trình nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp thủy sản thiết lập hệ thống kiểm soát chuỗi, đảm bảo tính đồng bộ của các tiêu chuẩn, quy phạm, quản lý chất lượng, VSATTP trong tất cả các khâu từ sản xuất nguyên liệu, thu gom, vận chuyển, chế biến đến xuất khẩu.
– Đẩy mạnh triệt để các biện pháp xã hội hóa để nâng cao hiệu quả và trách nhiệm trong quản lý chất lượng, VSATP của mỗi doanh nghiệp, người nuôi trong chuỗi sản xuất, giảm thiểu các thủ tục hành chính, tiết kiệm thời gian và chi phí kiểm tra bắt buộc lô hàng xuất khẩu do cơ quan có trách nhiệm thực hiện.
– Phải đảm bảo hệ thống tài chính, tín dụng về cơ bản ổn định để hỗ trợ nông ngư dân nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời góp phần hạ giá thành sản xuất, ổn định chất lượng VSATTP nguyên liệu thủy sản.
4. Đảm bảo nguồn nguyên liệu phục vụ xuất khẩu và nâng cao sức cạnh tranh về chất lượng mặt hàng thủy sản
Thanh Hóa là tỉnh có nguồn lợi thủy sản lớn nhất trong các tỉnh nằm ở vùng biển Tây vịnh Bắc bộ. Tàu thuyền khai thác, đánh bắt hải sản cũng không thiếu. Hiện toàn tỉnh có khoảng 4.300 tàu thuyền với tổng công suất nên tới 114.000 CV (bình quân 28 CV/tàu). Lượng tàu càng nhiều, công suất ngày càng lớn (so với năm 2001, hiện trung bình công suất tàu đã tăng 7 – 8 CV/tàu), đội hình tàu đánh bắt cá xa bờ ngày càng chuyên nghiệp, lại nằm trong vùng có nguồn lợi hải sản lớn, chắc chắn lượng hải sản khai thác được không phải là nhỏ.
Mỗi năm, đội ngũ tàu thuyền này đánh bắt khoảng 53.000 tấn hải sản các loại. Thế nhưng, từ đầu năm đến nay các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản vẫn lao đao vì không thu mua được nguồn thủy sản nguyên liệu rất lớn này. Do giá xăng dầu tăng mạnh, các chủ tàu thuyền ít cập bờ mà bán ngay ngoài khơi. Tư thương trong nước và nước ngoài đánh tàu ra khơi xa thu mua với giá khá cao, thu hút được các chủ tàu thuyền. Hơn 30 tàu thuyền được Công ty TNHH Lê Hồng Phát (thành phố Thanh Hóa) cho ứng tiền mua dầu mỡ trị giá nhiều tỷ đồng để bán hàng cho Công ty cũng không chịu thực hiện đúng hợp đồng. Chính vì thế, Công ty này chỉ hoàn thành 50% chỉ tiêu xuất khẩu trong tổng số kim ngạch 1 triệu USD do Sở Thương mại giao. Không thể chỉ trông chờ vào nguồn nguyên liệu đánh bắt ngoài khơi, các Công ty xuất khẩu thủy sản quay sang đầu tư nuôi trồng thủy sản. Hiện toàn tỉnh này có khoảng 4.000 ha nuôi tôm, mỗi năm cho thu hoạch khoảng 2.300 tấn. Công ty Xuất nhập khẩu Thủy sản Thanh Hóa (Khu công nghiệp Lễ Môn – thành phố Thanh Hóa) đã đầu tư nhiều tỷ đồng cho các hộ nuôi trồng nhưng vẫn không thể đủ nguyên liệu chế biến. Thời kỳ cao điểm, nhà máy chế biến của Công ty này chỉ hoạt động được gần 50% công suất (tương đương 1.200 tấn/năm).
Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu nói chung và các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản nói riêng thì nguồn nguyên liệu có ý nghĩa sống còn và cũng là một trong những yếu tố đảm bảo giữ chữ tín với khách hàng. Và để tạo được sự chủ động trong xuất khẩu thủy sản thì các doanh nghiệp cần chú ý tạo ra nhiều nguồn cung cấp thông qua việc ký hợp đồng với nhiều nhà cung cấp (không bao giờ được phụ thuộc vào một nhà cung cấp). Bên cạnh đó các doanh nghiệp cũng có thể góp vốn đầu tư vào các trang trại nuôi trồng thủy sản để tạo sự chủ động cho mình. Ngoài ra còn có thể tìm kiếm nhà cung ứng nước ngoài để đề phòng tình huống nguồn cung cấp trong nước không đáp ứng được về khối lượng hoặc chất lượng.
Do các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản của Thanh Hóa hầu hết đều là các doanh nghiệp vừa và nhỏ cho nên để cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn trên thế giới là rất khó khăn vì vậy các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản của tỉnh nên liên kết với nhau để tạo ra sức mạnh cạnh tranh.
Để đạt được mục tiêu xuất khẩu thủy sản, bài toán nguyên liệu phải được giải quyết bằng các hướng sau:
– Nâng cao sản lượng và mức độ chế biến của tỉnh.
– Quy hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản cùng với bảo vệ môi trường và quản lý đồng bộ về chất lượng các khâu con giống, thức ăn, thuốc thú y… trong hoạt động nuôi tôm và cá tra cũng như các loài thủy sản khác, nhằm bảo đảm yêu cầu chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP).
– Giảm thất thoát sau thu hoạch đi 10 – 20% giúp cho nguồn nguyên liệu thủy sản chất lượng hơn, làm tăng đáng kể lượng nguyên liệu cung ứng cho chế biến.
– Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại nhằm tăng năng suất và chất lượng, giảm tỷ trọng giá thành nguyên liệu; phát triển nhanh tỷ trọng các mặt hàng giá trị gia tăng có giá trị kinh tế cao theo nhu cầu thị trường xuất khẩu.
– Các doanh nghiệp tại Thanh Hóa cần chủ động thu hút khách hàng mang nguyên liệu tới để chế biến; phấn đấu tăng nhập khẩu nguyên liệu thủy sản để tận dụng năng lực chế biến lớn, điều kiện VSATTP tốt nhất khu vực, lực lượng công nhân dồi dào, lành nghề, phí gia công thấp…
– Tăng cường hợp tác khai thác, nuôi trồng, bảo quản nguyên liệu ở nước ngoài, sau đó chuyển về Việt Nam để chế biến tái xuất.
– Tăng cường công tác kiểm tra chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm đối với sản phẩm thủy sản đảm bảo theo tiêu chuẩn HACCP, ISO … Tuân thủ quy định hóa chất và chế phẩm được phép sử dụng phù hợp yêu cầu của các nước nhập khẩu.
– Đảm bảo chất lượng nguyên liệu chế biến thủy sản trên có sở doanh nghiệp phải ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm đối với người nuôi trồng, giúp đỡ ngư dân về kỹ thuật nuôi trồng, về giống, hướng dẫn ngư dân về kỹ thuật bảo quản nguyên liệu sau thu hoạch.
– Mạnh dạn đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ chế biến tiên tiến, đồng bộ từ khâu nuôi, khai thác, bảo sau thu hoạch, chế biến theo tiêu chuẩn hợp quy.
– Nhân rộng mô hình đánh bắt cá ngừ đại dương theo công nghệ của Nhật Bản.
– Doanh nghiệp cần lựa chọn chủng loại sản phẩm có giá trị cao để tập trung sản xuất nhằm tăng kim ngạch xuất khẩu.
5. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành thủy sản
Để nâng cao trình độ người lao động trong ngành nuôi, đánh bắt hải sản, tại Thanh Hóa cần phải mở nhiều Trung tâm đào tạo dạy nghề, mở rộng hoạt động đào tạo dạy nghề ra các tỉnh lân cận, để thường xuyên bổ sung thông tin về tiến bộ khoa học kỹ thuật trong nuôi trồng và đánh bắt hải sản, mở các lớp bồi dưỡng kiến thức chuyên môn định kỳ giúp cho người lao động luôn nắm bắt được những kỹ năng cơ bản thích nghi với môi trường làm việc, tạo một nguồn nhân lực có tay nghề trong đánh bắt hải sản, nuôi trồng và chế biến thủy sản.
Đối với doanh nghiệp phải đầu tư cơ sở vật chất tạo điều kiện cho công nhân được đào tạo và đào tạo lại, để hoàn thiện kiến thức giữa lý thuyết và thực hành đồng thời doanh nghiệp tiếp nhận sinh viên thực tập tại cơ sở. Trong quá trình sinh viên thực tập doanh nghiệp có thể tuyển dụng lao động, nguồn này doanh nghiệp không mất thời gian và kinh phí đào tạo.
Cần có những chính sách đào tạo cho con em ngư dân cũng tương tự như đồng bào các dân tộc thiểu số về cả văn hóa và tay nghề để xây dựng nên một lực lượng lao động có trình độ đảm nhận được nhiệm vụ như: đánh bắt xa bờ, cũng như tạo nguồn nhân lực cho xuất khẩu lao động nghề cá. Tăng cường hoạt động khuyến ngư, phổ biến kiến thức, kinh nghiệm, các mô hình nuôi trồng thủy sản, đánh bắt hải sản có hiệu quả kinh tế cao. Dần dần tiến tới tiêu chuẩn hóa lực lượng lao động chuyên nghiệp trong nghề cá ở các lĩnh vực cơ bản, nuôi, đánh bắt và chế biến.
6. Tăng cường sự hợp tác, liên kết giữa các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản và hỗ trợ việc dự đoán, nghiên cứu về thị trường tại EU
– Liên kết với các doanh nghiệp trong tỉnh tập trung đầu mối tiêu thụ thủy sản sang thị trường châu Âu, tham gia sàn đấu giá; phối hợp trao đổi xác định mối quan hệ chủ động điều chỉnh cung cầu, chống phá giá.
– Các doanh nghiệp chủ động xây dựng một chiến lược tiếp cận thị trường các chương trình đề án, phát triển thương hiệu gắn với việc tiếp cận thị trường mang tính dài hạn và bền vững tại thị trường truyền thống, tiềm năng, mới mở.
– Tiếp tục thực hiện các giải pháp hỗ trợ, khuyến khích phát triển ngành thủy sản từ khâu đánh bắt, bảo quản gắn với chế biến xuất khẩu nhằm nâng cao giá trị; huy động và giải quyết vốn cho ngư dân, doanh nghiệp nhằm khai thác tối đa năng lực khai thác, nuôi, sản xuất cũng như khai thác thị trường. Thực hiện chính sách ưu đãi phát triển kinh tế biển thu hút đầu tư, du nhập tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến ổn định nguồn nguyên liệu nâng cao chất lượng sản phẩm tăng sức cạnh tranh.
– Doanh nghiệp chủ động mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tận dụng hiệu quả các cơ hội tham gia thị trường theo các hiệp định mà địa phương đã cam kết với các nước. Tích cực phát triển thị trường.
– Để đảm bảo tồn tại phát triển trong xu thế hội nhập sự cạnh tranh diễn ra khốc liệt đòi hỏi doanh nghiệp Thanh Hóa để tồn tại trong điều kiện ít vốn, quy mô nhỏ cần phải tăng cường hợp tác, liên kết để phát triển, tận dụng, chia xẻ những ưu thế, tránh tình trạng phân tán, tranh mua, tranh bán thiếu lành mạnh.
– Thực hiện hiệu quả mối liên kết giữa nhà nông và nhà doanh nghiệp và sự hỗ trợ của nhà nước, các hiệp hội, các nhà khoa học, trong đó doanh nghiệp đóng vai trò nòng cốt, hỗ trợ kỹ thuật, vốn, giống, thức ăn, thu mua sản phẩm… nhằm giải quyết đầu vào – đầu ra về nguyên liệu đạt chất lượng, ổn định là vấn đề trọng tâm để ngành thủy sản Thanh Hóa tồn tại và phát triển bền vững.
– Liên kết, liên doanh với các đối tác tại EU để hình thành doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài tạo thế mạnh về vốn, công nghệ mới có thể đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của thị trường tăng khả năng cạnh tranh của hàng thủy sản.
– Ủy ban Nhân dân tỉnh chỉ đạo các ngành chức năng thực hiện tốt các giải pháp hỗ trợ cho ngư dân, hiệp hội, HTX, doanh nghiệp (vốn vay ưu đãi, ưu đãi thuế, hỗ trợ vật tư, nhiên liệu, kinh phí XTTM …) để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu thủy sản. Thành lập quỹ hỗ trợ sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản nhằm chia sẻ rủi ro khi có thiên tai, bão lũ… xảy ra.
– Bên cạnh đó, cần đưa ra và thực thi các chính sách quản lý, đầu tư thỏa đáng để đảm bảo khai thác tốt nguồn lợi xa bờ cũng như cải tiến kỹ thuật nuôi trồng thủy sản để đảm bảo nguồn nguyên liệu chất lượng cao cung cấp cho hoạt động chế biến thủy sản xuất khẩu.
– Hướng dẫn ngư dân tiếp cận được với gói 16.000 tỷ đồng của Chính phủ hỗ trợ ngư dân đóng tàu vỏ thép để đánh bắt xa bờ.
– Xây dựng, phát triển đội tàu đánh bắt, cung cấp dịch vụ hậu cần nghề cá cho các ngư dân trong tỉnh, thực hiện chức năng như một Trạm dịch vụ hậu cần di động, thu gom sản phẩm khai thác, cung ứng nhiên liệu, nước ngọt, lương thực, thực phẩm thiết yếu cho các tàu đánh bắt xa bờ của tỉnh.
– Tăng cường tuyên truyền, phổ biến cho tổ chức, cá nhân tại Thanh Hóa hoạt động thủy sản biết và thực hiện theo Nghị định số 67/2014/NĐ-CP ngày 7/7/2014 của Chính phủ về một số chính sách phát triển thủy sản.
– Thâm nhập các kênh phân phối của EU. Do các kênh phân phối của thị trường EU là hết sức phức tạp và hàng hoá của Việt Nam muốn thâm nhập sâu hơn vào thị trường EU thì phải thông qua các kênh phân phối này do đó chúng ta phải có các biện pháp thích hợp để thâm nhập các kênh này.
7. Xây dựng và cải thiện kết cấu hạ tầng, giao thông vận tải, bến bãi
Trong những năm qua, Thanh Hóa luôn luôn quan tâm đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản cũng như phòng chống lụt bão và tìm kiếm cứu nạn.
+ Đê điều và phòng chống bão lụt:
Mặc dù được tỉnh và Trung ương quan tâm dành vốn đầu tư hàng năm nhưng đến nay vẫn là một vấn đề tiếp tục cần được quan tâm giải quyết.
Công trình đê hiện tại đã đủ sức chống với lũ lớn xảy ra nhưng so với quy phạm còn thấp. Đặc biệt hệ thống cống dưới đê cần được theo dõi, sửa chữa thường xuyên để đảm bảo an toàn trong mùa mưa lũ.
Hệ thống đê biển qua 3 năm (2006, 2007, 2008) đã được đầu tư tập trung với quy mô kiên cố. Những tuyến đê biển quan trọng trên địa bàn các huyện Hậu Lộc, Hoằng Hóa, Tĩnh Gia, Sầm Sơn, Quảng Xương đã được triển khai thi công và cơ bản hoàn thành.
Hạ tầng ngành thủy sản đã tập trung đầu tư xây dựng các cảng cá Lạch Bạng, Lạch Hới, Hòa Lộc (Hậu Lộc), Hoằng Trường (Hoằng Hóa), Quảng Nham (Quảng Xương). Tỉnh cũng đang triển khai nghiên cứu để chuẩn bị các điều kiện đầu tư một số cảng cá ở Nga Sơn, Hoằng Hóa, Tĩnh Gia.
Công trình âu trú bão Lạch Hới (quy mô 700 tàu) đã hoàn thành và hiện đang chuẩn bị đầu tư một số âu trú bão Lạch Bạng (Tĩnh Gia), Kênh De (Hậu Lộc).
Hệ thống các chợ cá đầu mối ở Hậu Lộc, Nga Sơn, Tĩnh Gia cũng đang được triển khai.
Về nuôi trồng thủy sản: Đã đầu tư một số dự án kết hợp trồng trọt, chăn nuôi với nuôi trồng thủy sản (Hà Trung, Nông Cống), nuôi tôm nước lợ (Quảng Chính – Quảng Xương)…
Tóm lại, để đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản, nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh của Thanh Hóa, tạo vị thế ngày càng vững chắc của hàng thủy sản trên thị trường EU, tỉnh Thanh Hóa cần chủ động mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tiếp cận, cập nhật thông tin một cách đầy đủ và chính xác, đánh giá đúng khả năng sản xuất và mạnh dạn đầu tư đổi mới trang thiết bị, nâng cao chất lượng hàng thủy sản xuất khẩu, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, tận dụng tối đa các lợi thế vẫn được coi là thế mạnh của địa phương như: điều kiện tự nhiên, chi phí lao động rẻ… hạn chế thấp nhất các rủi ro có thể xảy ra nhằm đảm bảo phấn đấu thực hiện hoàn thành chỉ tiêu xuất khẩu thủy sản năm 2015.