(TSVN) – Nền đáy ao nuôi tôm liên quan trực tiếp đến chất lượng nước và sức khỏe của tôm, quyết định phần lớn đến sự phát triển và thành bại của vụ nuôi, do đó tìm ra giải pháp xử lý hữu hiệu triệt để đáy ao là vô cùng cần thiết.
– Cải tạo ao thật kỹ cho mỗi vụ nuôi mới;
– Hạn chế sự xói mòn do dòng chảy bằng việc rửa ao nhiều lần, xây dựng chắc chắn hệ thống ao nuôi, gia cố kỹ bờ ao;
– Quản lý chặt chẽ việc cho ăn, giảm lượng thức ăn dư thừa;
– Loại bỏ chất thải bùn đáy ra khỏi ao bằng cách thay nước, hút bùn và xiphong đáy ao;
– Sử dụng chế phẩm sinh học: Chế phẩm vi sinh: chủng vi khuẩn có lợi Bacillus có khả năng phân hủy bùn đáy và chất hữu cơ dư thừa trong nước.
Việc dọn tẩy lớp bùn đáy trong ao nuôi bán thâm canh và thâm canh có thể được thực hiện bằng một trong hai cách là dọn tẩy khô và dọn tẩy ướt. Ảnh: CTV
Việc xử lý chất hữu cơ dư thừa và bùn đáy ao là hết sức cần thiết, nhằm giữ môi trường nước trong sạch, nâng cao sức khỏe và sự phát triển của động vật thủy sản. Tuy nhiên, sản phẩm khi đưa vào ao nuôi ngoài hiệu quả sử dụng còn phải thân thiện với môi trường, không gây ảnh hưởng xấu động vật thủy sản.
Việc này giúp đảm bảo an toàn sinh học và giảm thiểu tác động từ nền đất của ao nuôi. Ở các ao đất, ở nền đáy ao thường xảy ra quá trình hô hấp thiếu khí của vi sinh vật. Quá trình này tạo ra các loại khí độc gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của tôm. Sử dụng lớp lót bằng nhựa HDPE hoặc bê tông sẽ ngăn ngừa những vấn đề này và giúp quản lý chất lượng nước và đáy ao dễ dàng hơn.
Ao nuôi thường có các hình dạng như hình tròn, vuông và chữ nhật. Hình dạng của ao có ảnh hưởng rất lớn đến dòng chảy và sự lắng tụ ở đáy ao. Mỗi hình dạng đều có những ưu và khuyết điểm, nhưng các ao nuôi hình tròn và hình vuông cho phép nước lưu thông tốt, giúp cho việc thu gom chất thải được dễ dàng hơn. Điều này làm cho việc loại bỏ bùn dễ dàng hơn.
Một điểm quan trọng khác trong thiết kế ao là cấu trúc liên kết đáy. Thiết kế đáy ao tốt sử dụng cống trung tâm để giảm thiểu lượng bùn lắng. Xiphong được cho là giải pháp hữu hiệu trong việc xử lý chất thải lắng tụ trong ao nuôi. Để việc thu gom chất thải được dễ dàng, hố xiphong nên được bố trí ở vùng trung tâm của ao. Nên xiphong đáy một ngày 1 lần hoặc tối thiểu 2 lần một tuần, thực hiện vào buổi sáng trước khi cho ăn lần đầu tiên để loại bỏ thức ăn thừa, phân, xác phiêu sinh vật hoặc tôm chết có thể xuất hiện.
Máy sục khí là một công cụ quan trọng không chỉ để cung cấp ôxy mà còn giúp đẩy bùn về phía cống. Loại máy sục khí phổ biến nhất là bánh xe cánh khuấy. Có hai lưu ý chính trong việc sử dụng thiết bị sục khí: số lượng cần thiết cho mỗi ao và cách bố trí. Mỗi ao cần một số lượng thiết bị sục khí nhất định để đảm bảo cả hỗ trợ ôxy và thu gom bùn, nhưng điều này sẽ khác nhau tùy thuộc vào kích thước ao và mật độ thả. Theo nguyên tắc chung, nên đặt tổng cộng 6 máy sục khí trong một ao 1.000 m2 với mật độ thả 100 PL/m2.
Đối với việc bố trí các thiết bị sục khí, điều quan trọng là phải đảm bảo rằng tất cả các mặt và các góc của ao được che phủ để không để lại bất kỳ bùn nào. Có hai kiểu thiết kế chính: song song và chéo. Trong số hai cách này, với cách sắp xếp theo đường chéo, dòng nước được phân bố trên diện rộng hơn, giảm thiểu đáng kể các điểm chết.
Trong suốt quá trình nuôi, việc đánh giá và kiểm tra bùn đáy để ngăn ngừa các ảnh hưởng tiêu cực của nó là rất quan trọng. Điều này có thể được thực hiện bằng cách lấy mẫu trầm tích tại chỗ và đo lượng bùn cũng như 4 chỉ tiêu sau: pH, tiềm năng ôxy hóa khử (ORP), H2S, và NH4-N.
Việc lấy mẫu phải được thực hiện ít nhất hai lần một vụ, vào giữa vụ nuôi khi bùn đáy bắt đầu hình thành và khi kết thúc vụ nuôi. Khi tôm có hiện tượng chết, chất lượng nước thấp hoặc tôm tăng trưởng chậm việc lấy mẫu bùn đáy cũng nên được thực hiện để xác định chính xác nguyên nhân.
Hút hoặc làm sạch đáy ao theo cách thủ công luôn là cách tốt để duy trì chất lượng đáy ao tối ưu. Nên hút ao sau khoảng thời gian cho ăn liên tục hoặc khoảng ngày thứ 13. Định kỳ xiphong đáy ao 1 lần/ngày hoặc tối thiểu 2 lần/tuần. Có thể thực hiện xiphong vào mỗi buổi sáng trước khi cho ăn lần đầu tiên để loại bỏ thức ăn thừa, phân, xác hoặc tôm chết có thể xuất hiện.
Các sản phẩm hóa học và chế phẩm sinh học có thể được sử dụng để quản lý các tác động có hại của chất thải hữu cơ đối với đáy ao. Sử dụng các sản phẩm này tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình phân hủy và tăng nồng độ ôxy ở đáy ao.
Kali pemanganat (KMnO4): cho phép phân hủy bùn nhanh chóng. Tỷ lệ xử lý của KMnO4 thay đổi tùy thuộc vào điều kiện nước trong ao, quan trọng nhất là mức chất hữu cơ hoặc tải lượng hữu cơ.
Hydrogen peroxide (H2O2) cũng được xem như một chất ôxy hóa cho phép phân hủy đồng thời giải phóng ôxy phân tử. Đối với 1 mL H2O2 6%, lượng ôxy hòa tan là khoảng 3 mg/L. Điều quan trọng cần lưu ý là mức an toàn của H2O2 là 14,3 μL H2O2/L.
Chế phẩm sinh học: Được biết đến với rất nhiều lợi ích trong nuôi tôm. Trong trường hợp này, áp dụng chế phẩm sinh học có thể cải thiện chất lượng bùn bằng cách thực hiện quá trình nitrat hóa, quá trình này chuyển đổi amoniac thành nitrit và nitrat. Điều này làm giảm đáng kể mức độ độc hại trong bùn. Những vi sinh vật này giúp phân giải các chất hữu cơ như thức ăn thừa trong quá trình nuôi tôm, phân tôm, các thực vật thủy sinh, xác chết của thủy sinh… những tạp chất này làm cho môi trường nước bị ô nhiễm dễ sản sinh các vi khuẩn gây bệnh cho tôm. Qua đó làm cho môi trường nuôi tôm sạch và tôm phát triển tốt.
Thiết lập bản đồ giúp người nuôi tìm ra nguyên nhân và giải pháp cũng như chú ý quản lý các điểm mà chất thải tập trung nhiều. Bản đồ nên được thiết kế theo một tỷ lệ nhất định và sử dụng màu sắc để phân loại độ dày, thưa của bùn đáy ở từng vị trí. Điều quan trọng cần ghi nhớ là quản lý đáy ao liên quan nhiều đến quản lý chất lượng nước. Vì chất thải hữu cơ được tạo ra từ các trang trại nuôi tôm có thể mang lại những hậu quả tiêu cực cho môi trường, nên vấn đề này cũng là điều cần được lưu ý.
Cải tạo ao gồm các khâu chính là dọn tẩy ao, bón vôi và chuẩn bị nước để thả tôm giống. Việc dọn tẩy lớp bùn đáy trong ao nuôi bán thâm canh và thâm canh có thể được thực hiện bằng một trong hai cách là dọn tẩy khô và dọn tẩy ướt.
Trong phương pháp dọn tẩy khô, lớp bùn đáy sau khi được phơi khô sẽ được dọn bỏ bằng cơ giới hay bằng tay. Phương pháp dọn tẩy ướt được thực hiện bằng cách dùng máy bơm nước áp lực mạnh để rửa trôi lớp bùn đáy còn ướt.
Sau khi dọn sạch chất thải cần cho nước vào ao để rửa trôi các mảnh vụn và hòa tan phèn ở đáy và thành ao. Lượng nước này nên để qua đêm và được kiểm tra pH trước khi tháo cạn. Quá trình này có thể lặp lại nhiều lần cho tới khi pH ổn định. Bón vôi được thực hiện sau lần tháo rửa cuối cùng.
Sau khi bón vôi xong, nếu điều kiện cho phép nên tiếp tục phơi đáy ao vài ngày cho khô ráo mặt đáy ao trước khi tiến hành chuẩn bị nước để thả tôm.
Kể từ tháng nuôi thứ 2 trở đi lượng bùn đáy trong ao sẽ bắt đầu tăng do lượng thức ăn tăng, lúc này việc quản lý chất thải bùn đáy chính là quản lý tốt thức ăn và chất lượng nước.
Ngoài ra, cần tăng cường hoạt động các giàn quạt nước và sục khí đáy nhằm giảm thiểu tác hại của bùn đáy, đồng thời cần bổ sung thêm các chế phẩm sinh học để phân hủy chất hữu cơ và các khí độc có trong ao nuôi. Sau khi thả tôm 10 ngày nên sử dụng chế phẩm sinh học làm sạch nước ao định kỳ 5 – 7 ngày/lần.
Sau 1 tháng nuôi, tiến hành xiphong đáy định kỳ 4 ngày/lần; khi xiphong đáy phải nhẹ nhàng, điều chỉnh van vừa phải, tránh tôm bị hút ra theo ống xiphong.
Sử dụng chế phẩm vi sinh để đẩy nhanh quá trình phân hủy chất hữu cơ dư thừa trong nước và bùn đáy ao, giảm thiểu lượng vi khuẩn gây hại, kiểm soát gia tăng của các loại tảo và khí độc như NH3, H2S từ đó cải thiện chất lượng nước và môi trường ao nuôi.
Hoàng Yến