(TSVN) – Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang vừa ký ban hành Quyết định phê duyệt Quy hoạch bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Phạm vi quy hoạch bao gồm các thủy vực thuộc vùng nội địa và các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, bao gồm vùng biển huyện đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Đối với bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản, đến năm 2030, sẽ có 27 khu bảo tồn biển được thành lập và hoạt động hiệu quả với tổng diện tích vùng biển được khoanh vùng bảo tồn khoảng 463.587 ha, chiếm khoảng 0,463% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia (các vùng biển thuộc quyền tài phán quốc gia); 149 khu vực ở vùng biển (59 khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản, 63 khu vực cấm khai thác thủy sản có thời hạn, 27 khu vực cư trú nhân tạo cho các loài thủy sản) và 119 khu vực nội địa (66 khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản, 53 khu vực cấm khai thác thủy sản có thời hạn) được khoanh vùng bảo vệ nguồn lợi thủy sản, bảo vệ khu vực tập trung sinh sản, khu vực thủy sản còn non tập trung sinh sống của các loài thủy sản.
Đến năm 2030, sẽ có 27 khu bảo tồn biển được thành lập và hoạt động hiệu quả. Ảnh minh họa
Đối với khai thác thủy sản, đến năm 2030, tổng số tàu cá tối đa khoảng 83.600 chiếc; Tổng số lao động giảm xuống còn khoảng 600 nghìn người. Cùng đó, cơ cấu nghề khai thác như sau: Nghề lưới kéo chiếm 10,0%; nghề lưới vây chiếm 6,1%; nghề lưới rê chiếm 40,3%; nghề câu chiếm 18,9%; nghề lưới chụp chiếm 3,0%; nghề lồng bẫy chiếm 2,9%; nghề khác chiếm 16,6% và nghề hậu cần đánh bắt nguồn lợi thủy sản chiếm 2,2% tổng số tàu cá.
Đồng thời, hoàn chỉnh hệ thống cảng cá và khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá thành một hệ thống liên hoàn, liên vùng nhằm đáp ứng nhu cầu neo đậu, dịch vụ hậu cần nghề cá.
Tầm nhìn đến năm 2050, Việt Nam trở thành quốc gia có nghề cá phát triển bền vững, hiện đại, tương đương với các nước có nghề cá phát triển trong khu vực và trên thế giới; đa dạng sinh học biển và các thủy vực nội địa được bảo tồn và phát triển; đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng cao; góp phần bảo đảm an sinh xã hội; bảo vệ chủ quyền, an ninh, trật tự và lợi ích quốc gia trên sông, trên biển của Việt Nam.
Về bảo vệ nguồn lợi thủy sản, theo quy hoạch được phê duyệt sẽ chú trọng phục hồi nguồn lợi thủy sản đặc biệt các loài có giá trị kinh tế, loài nguy cấp, quý, hiếm, loài thủy sản đặc hữu; tăng cường công tác quản lý, đánh giá, bảo tồn, bảo vệ và tái tạo nguồn lợi thủy sản trên các loại hình thủy vực ở vùng nội địa và vùng biển.
Tăng quy mô, diện tích các khu vực biển được bảo tồn và bảo vệ nguồn lợi thủy sản; thành lập mới và tổ chức quản lý hiệu quả các khu bảo tồn biển; Xác định các khu vực cấm khai thác thủy sản có thời hạn là khu vực thủy sản tập trung sinh sản, khu vực thủy sản còn non tập trung sinh sống; khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản; nghề, ngư cụ cấm sử dụng khai thác thủy sản gây nguy hại, hủy diệt nguồn lợi thủy sản, môi trường sống của loài thủy sản và hệ sinh thái thủy sinh.
Tổng số tàu cá được quy hoạch đến năm 2030 tối đa khoảng 83.600 chiếc. Ảnh: ST
Hình thành khu vực cư trú nhân tạo cho loài thủy sản nguy cấp, quý, hiếm, loài thủy sản có giá trị kinh tế, khoa học, loài thủy sản bản địa, loài thủy sản đặc hữu trên các vùng biển.
Lưu giữ, bảo tồn và phát triển nguồn gen của các loài thủy sản nguy cấp, quý, hiếm, loài bản địa, loài đặc hữu, loài có giá trị kinh tế. Đa dạng hình thức lưu giữ nguồn gen, lựa chọn đối tượng tiềm năng, đầu tư nghiên cứu sản xuất giống để chủ động trong công tác tái tạo, phục hồi nguồn lợi thủy sản và phát triển kinh tế.
Ứng dụng khoa học và công nghệ, chuyển đổi số trong công tác quản lý, bảo tồn, bảo vệ nguồn lợi thủy sản, bảo vệ các loài rùa biển, thú biển và giảm thiểu đánh bắt không chủ ý đối với các loài thủy sản.
Về khai thác thủy sản, định hướng giảm dần sản lượng thủy sản khai thác, điều chỉnh tỷ trọng sản lượng khai thác giữa các vùng biển, phù hợp với trữ lượng nguồn lợi thủy sản; khai thác có chọn lọc các đối tượng thủy sản có giá trị kinh tế cao.
Điều chỉnh số lượng tàu cá khai thác thủy sản, chuyển đổi cơ cấu nghề khai thác thủy sản ở các thủy vực vùng nội địa, vùng biển phù hợp với khả năng cho phép khai thác của nguồn lợi thủy sản, đặc biệt giảm tỷ trọng nghề lưới kéo trên biển; gắn phát triển sinh kế của cộng đồng ngư dân với phát triển nuôi trồng thủy sản, du lịch sinh thái, nghề cá giải trí.
Củng cố, đổi mới các tổ, đội, hợp tác xã, nghiệp đoàn nghề cá; tổ chức sản xuất thủy sản khai thác theo chuỗi giá trị, chú trọng tăng về giá trị sản xuất. Đến năm 2030, khoảng 80% tàu cá khai thác thủy sản ở vùng lộng và vùng khơi tham gia chuỗi liên kết sản xuất trên biển.
Ứng dụng khoa và học công nghệ, chuyển đổi số trong quản lý, hoạt động khai thác thủy sản, bảo quản sản phẩm khai thác, hiện đại hóa công tác quản lý nghề cá trên biển.
Hình thành nguồn nhân lực tham gia khai thác thủy sản chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển của công nghệ và hội nhập quốc tế; Đầu tư, phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng và dịch vụ hậu cần phục vụ khai thác thủy sản…
Quy hoạch đưa ra 8 giải pháp để thực hiện quy hoạch, bao gồm các giải pháp về cơ chế, chính sách; tài chính, đầu tư; môi trường, khoa học và công nghệ; tuyên truyền, nâng cao nhận thức; đào tạo, tăng cường năng lực hợp tác quốc tế; tổ chức sản xuất; tổ chức thực hiện và giám sát thực hiện quy hoạch.
Trong giai đoạn đến năm 2030, tổng kinh phí để thực hiện Quy hoạch này là khoảng 8.166 tỷ đồng, trong đó bao gồm nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, vốn ngoài ngân sách và các nguồn vốn hợp pháp khác.
Quy hoạch tập trung đầu tư 4 nhóm dự án ưu tiên, bao gồm: Nhóm dự án điều chỉnh ranh giới, diện tích khu bảo tồn biển (bao gồm 06 dự án tương ứng với 06 khu bảo tồn biển đã được thành lập; Nhóm dự án thành lập mới khu bảo tồn biển (bao gồm 21 dự án tương ứng với 21 khu bảo tồn biển hành lập mới; Nhóm dự án đầu tư cơ sở hạ tầng cho các khu bảo tồn biển (bao gồm 27 dự án tương ứng với 27 khu bảo tồn biển); Nhóm dự án đầu tư hình thành khu vực cư trú nhân tạo cho các loài thủy sản ở biển Việt Nam (bao gồm 27 dự án tương ứng với 27 khu vực cư trú nhân tạo cho các loài thủy sản.
Bảo Hân