(Thủy sản Việt Nam) – Cá rô phi thường hay mắc phải một loại bệnh nguy hiểm do vi khuẩn Streptococcus gây nên, bệnh có thể gây chết cá với số lượng lớn, với cá có kích cỡ lớn, có thể trở thành mối đe dọa số một đối với ngành công nghiệp này. Xin được chia sẻ cùng bạn đọc một số thông tin về bệnh.
Các dấu hiệu lâm sàng bên ngoài của cá bị bệnh:
– Hành vi bất thường: Do vi khuẩn gây bệnh có hướng tấn công vào hệ thống thần kinh trung ương của cá nên cá bị bệnh sẽ có biểu hiện bị hôn mê và mất phương hướng. Hoặc tổn thương về mắt như viêm mắt, lồi mắt hoặc chảy máu mắt.
– Các vết áp-xe: Vết áp-xe có đường kính từ 2-3mm và những vết vỡ ra sẽ tạo thành những vết lở loét xuất huyết không lành. Những vết áp-xe lớn hơn có thể gặp thấy ở vây ngực và phần đuôi của cá và có chứa mủ ở bên trong.
– Xuất huyết ở da: Các điểm xuất huyết thường được nhìn thấy ở quanh miệng cá hoặc ở các gốc vây, hoặc những vùng da hơi đỏ xung quanh hậu môn hoặc sinh dục của cá.
– Dịch cổ trướng: Sự có mặt của dịch chất lỏng trong bụng cá là dấu hiệu của dịch bệnh ở thời kỳ cấp tính, dịch này có thể chảy ra từ hậu môn của cá.
Cần phát hiện và điều trị sớm vi khuẩn Streptococcus gây bệnh trên cá rô phi Ảnh: Đức Minh
Các dấu hiệu bên trong của cá
Các dấu hiệu bên trong của bệnh này có nhiều điểm tương đồng với bệnh nhiễm trùng máu của cá.
– Cá bỏ ăn: Nhìn chung không có thức ăn trong dạ dày hoặc ruột của những con cá bị bệnh. Tuy nhiên, trong các ao nuôi cá thương phẩm, khi cá bị bệnh ở giai đoạn đầu bệnh mới bùng phát cá vẫn có thể ăn bằng cách lọc thức ăn. Khi ruột và dạ dày của cá trống rỗng sẽ quan sát thấy túi mật to.
– Nhiễm trùng máu: Trong giai đoạn cấp tính, vi khuẩn nhanh chóng tấn công hệ thống máu và lan tỏa đến các cơ quan nội tạng. Những dấu hiệu lâm sàng chính liên quan đến sự nhiễm trùng máu là sự xuất huyết, viêm gan, thận, lá lách, tim, mắt và ống ruột. Lá lách và thận trương và sưng nhẹ.
– Viêm màng bụng: Khi cá bị nhiễm bệnh nặng có sự dính nhau của các cơ quan nội tạng với màng trong khoang bụng của cá. Có thể quan sát thấy các tơ huyết trong màng ở khoang bụng của cá.
Sự phân bố và lan truyền của bệnh
Dịch bệnh thường xảy ra trong trường hợp nhiệt độ nước tăng, lượng oxy trong nước thấp hoặc cá nuôi với mật độ dày trong thời gian dài. Cá có kích thước lớn (từ 100g đến cỡ thương phẩm) dễ bị mắc bệnh hơn cả. Bệnh lây lan theo chiều ngang từ cá với cá hoặc từ môi trường đến cá.
Kiểm soát và xử lý bệnh
– Giảm cho ăn: Trong thời gian dịch bệnh bùng phát ở giai đoạn cấp tính nên giảm một phần thức ăn hoặc giảm hoàn toàn thức ăn, có thể giúp kiểm soát và giảm tỷ lệ tử vong.
– Giảm mật độ nuôi: Giảm mật độ nuôi sẽ giúp giảm bớt căng thẳng và sự chuyển tải của mầm bệnh trong đàn cá. Luôn giữ mức oxy hoà tan ở mức tối ưu bằng cách sử dụng quạt nước thường xuyên.
– Giảm nhiệt độ của nước: Nhiệt độ nước cao là điều kiện thuận lợi để vi khuẩn phát triển. Vì vậy, việc hạ thấp nhiệt độ nước có thể được thực hiện trong hệ thống nuôi nước tuần hoàn. Đối với những ao nuôi có kích thước nhỏ, có thể dùng lưới che nắng. Sử dụng máy quạt nước vào ban đêm cũng là cách làm giảm nhiệt độ nước và tăng lượng oxy.
– Điều trị bằng kháng sinh: Kháng sinh chỉ có thể điều trị bệnh ở giai đoạn sớm của bệnh. Tuy nhiên, việc sử dụng kháng sinh cần được chú ý vì sử dụng kháng sinh liên tục với liều cao có thể gây ra hiện tượng kháng thuốc của vi khuẩn và dư lượng kháng sinh tồn dư trong thịt cá.
Nguyễn Quốc Minh