Cân nhắc bài toán môi trường và phát triển

Chưa có đánh giá về bài viết

Trong cuộc họp lấy ý kiến về Dự án Hệ thống thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé của Bộ NN&PTNT tại Kiên Giang mới đây, nhiều đại biểu tham dự đã tích cực đưa ra ý kiến, với tinh thần thực hiện Nghị quyết 120 của Chính phủ: “Chủ động sống chung với lũ, ngập, nước lợ, nước mặn”.


Mô hình nuôi tôm lúa

Tỉnh mong ngóng

Viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam Đỗ Dức Dũng trình bày Báo cáo tóm tắt dự án. Vùng dự án gồm 6 tỉnh và thành phố là Kiên Giang, Hậu Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng và TP Cần Thơ, có diện tích tự nhiên 909.248 ha, dân số năm 2016 là 3,6 triệu người. Đây là vùng trũng, bị mặn xâm nhập sâu mùa khô và ngập lụt mùa mưa nên sản xuất khó khăn. Dự án nhằm kiểm soát mặn, bảo đảm môi trường cho định hướng sản xuất với trọng tâm là duy trì tôm – lúa đang phù hợp và có hiệu quả. Vốn cho dự án giai đoạn 1 là 3.310 tỷ đồng, thực hiện từ nay đến năm 2020.

Đại diện các địa phương nhấn mạnh: “Hệ thống thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé sẽ góp phần thực hiện chủ trương, quan điểm phát triển vùng ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu theo Nghị quyết 120/NQ-CP của Chính phủ là: Chủ động sống chung với lũ, ngập, nước lợ, nước mặn”.

Ngày 7/8/2018, UBND tỉnh Kiên Giang có Công văn số 1034/UBND-KTHT do Chủ tịch Phạm Vũ Hồng ký, gửi Bộ NN&PTNT đề nghị chỉ đạo sớm triển khai Dự án Hệ thống thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé. Công văn “khẳng định việc đầu tư xây dựng cống Cái Lớn – Cái Bé là rất cần thiết, cấp bách và sẽ có hiệu quả ngay khi hoàn thành công trình, không chỉ tỉnh Kiên Giang được hưởng lợi, mà các tỉnh, thành khác trong khu vực bán đảo Cà Mau cũng được hưởng lợi. Dự án tác động đến vùng bán đảo Cà Mau rất lớn, đã được xác định tương đối rõ trong những năm gần đây. Còn những tác động bất lợi thực tế là không nhiều và có thể giảm thông qua quy trình vận hành hợp lý”.

Ngày 15/8, UBND tỉnh Hậu Giang có công văn số 3195/UBND-KT do Chủ tịch Lê Tiến Châu ký, gửi Bộ NN&PTNT kiến nghị sớm đầu tư xây dựng Hệ thống thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé. Chủ tịch Lê Tiến Châu phân tích: “Dự án Hệ thống thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé có mục tiêu chính rất cần thiết, cấp bách là kiểm soát mặn, giữ ngọt, giải quyết mâu thuân giữa vùng nuôi trồng thủy sản ven biển và vùng sản xuất nông nghiệp các tỉnh Kiên Giang, Hậu Giang và Bạc Liêu; chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Việc kiểm soát mặn từ xa trong điều kiện cực đoan, tạo nguồn nước ngọt cho vùng ven biển, giải quyết tình trạng thiếu nước ngọt vào mùa khô; tăng cường khả năng thoát lũ, tiêu úng, tiêu chua, cải tạo đất phèn; kết hợp phát triển giao thông thủy, bộ trong vùng dự án”. Ông Nguyễn Văn Đồng, Giám đốc Sở NN&PTNT Hậu Giang nói: “Chúng tôi chờ đợi mòn mỏi chục năm rồi, rất cần dự án để thoát cảnh lùng nhùng không rõ ràng mặn ngọt, mỗi năm phải đắp tạm hàng trăm đập ngăn mặn mà vẫn không chuyển đổi được sản xuất. Sau giai đoạn 1 cần thực hiện tiếp giai đoạn 2 để dự án phát huy hiệu quả tích cực”.

Chuyên gia lo lắng

Quan điểm đối lập lại cho rằng: “Dự án Thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé nếu được thực hiện sẽ phá vỡ gần như toàn bộ Nghị quyết số 120”. Đại diện cho quan điểm này là các chuyên gia nghiên cứu độc lập, gồm TS Lê Anh Tuấn, Dương Văn Ni, Nguyễn Hồng Tín, Đặng Kiều Nhân ở Trường ĐH Cần Thơ và chuyên gia độc lập về sinh thái Nguyễn Hữu Thiện. Các chuyên gia có bản “Đánh giá các hệ thống ngăn mặn vùng ven biển châu thổ Cửu Long và Dự án thủy lợi sông Cái Lớn – Cái Bé”.

Phần đầu bản đánh giá cho rằng, các công trình ngăn mặn ở vùng ven biển châu thổ Cửu Long trong mấy chục năm qua gây hại nhiều hơn lợi; bởi cản trở giao thông, sản xuất bất ổn mặn – ngọt, làm thay đổi đặc điểm nguồn nước và nguồn lợi thủy sản, thay đổi cả chất lượng đất và sinh cảnh thực vật, thay đổi văn hóa xã hội, tính kém hiệu quả kinh tế công trình và không có người chịu trách nhiệm.

Với Dự án Hệ thống thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé, bản đánh giá bày tỏ quan ngại là không đạt được các mục tiêu, nhất là kiểm soát mặn – ngọt. Bản đánh giá cho rằng: “Ở vùng này, người dân đã biết lợi dụng chênh lệch địa hình khác nhau để quyết định trồng lúa (vùng đất gò cao) hay nuôi tôm (vùng trũng thấp)… Như vậy, trong vùng đã hình thành các hình thức canh tác nông nghiệp và thủy sản xen kẽ khá hài hòa với điều kiện thổ ngưỡng và khí hậu, từ xưa, không có gì mâu thuẫn giữa sử dụng nước mặn và nước ngọt giữa xóm làng với nhau. Sự mâu thuẫn xuất hiện sau này từ khi có chủ trương ngọt hóa từ thập niên 1980 với mục tiêu tăng diện tích trồng lúa, từ 1 vụ lên 2 – 3 vụ”. 

Các chuyên gia độc lập kết luận: “Công trình này sẽ gây ra vô vàn hệ lụy về môi trường cho một vùng rộng lớn Tây Sông Hậu và hoàn toàn không cần thiết cũng như không thể đạt được mục đích ngăn mặn đưa ra trong dự án (…) Kiến nghị khẩn cấp dừng tất cả các công trình không cần thiết, điển hình là Dự án Thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé”.

Về thắc mắc của nhóm chuyên gia độc lập phản đối dự án là tại sao không chờ quy hoạch tổng thể của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, vì nếu phê duyệt đầu tư cống Cái Lớn – Cái Bé mà sau này trong quy hoạch không có thì giải quyết thế nào? GS.TS Đào Xuân Học, Chủ tịch Hội Thủy lợi Việt Nam, khẳng định ông là tổ trưởng đang làm quy hoạch tổng thể giúp Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong đó có công trình Cái Lớn – Cái Bé và ông ủng hộ cần làm sớm dự án để đưa sản xuất nông nghiệp đi lên hiện đại.

>> Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Hoàng Văn Thắng cho rằng, Bộ sẽ tiếp nhận và đề nghị các chuyên gia tiếp tục đóng góp ý kiến để hoàn thiện dự án phục vụ tốt vùng nông nghiệp trong điểm quốc gia đi lên hiện đại. Trong đó, phải cân nhắc giữa bài toán môi trường và phát triển, trên cơ sở đảm bảo hỗ trợ người dân chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu.

Sáu Nghệ

Bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Hãy là người đầu tiên bình luận trong bài
error: Content is protected !!